Chưa có cơ chế nào có thể giải thích tất cả các trường hợp bệnh tự miễn, có thể cơ chế thay đổi theo bệnh.
Đại cương
Bệnh
tự miễn là tình trạng bệnh lý xảy ra do bộ máy miễn dịch mất khả năng
phân biệt các kháng nguyên bên ngoài và tự kháng nguyên. Tự kháng nguyên
là thành phần của cơ thể, vì lý do nào đó trở thành vật lạ, tự kháng
thể của cơ thể chống lại các tự kháng nguyên này làm bệnh tự miễn xảy
ra.
Cần
phân biệt bệnh tự miễn với phản ứng tự miễn, phản ứng tự miễn làm xuất
hiện các tự kháng thể nhưng không gây bệnh, như các tự kháng thể được
tạo sau sự hoại tử mô góp phần loại bỏ các chất phân huỷ.
Bệnh
còn được mang nhiều tên khác nhau như: Bệnh do tự kháng thể, bệnh do tự
công kích, bệnh do tự duy trì, bệnh tự dị ứng, bệnh tự mẫn cảm, tên gọi
thường được dùng nhiều nhất là bệnh tự miễn.
Cơ chế bệnh sinh
Chưa có cơ chế nào có thể giải thích tất cả các trường hợp bệnh tự miễn, có thể cơ chế thay đổi theo bệnh.
Bình
thường các thành phần của cơ thể trong thời kỳ bào thai đã tiếp xúc với
hệ lưới nội mô, sau này tiếp xúc lại sẽ được nhận biết là của cơ thể,
không làm phát sinh kháng thể chống lại, đó là tính dung nạp miễn dịch.
Tính dung nạp miễn dịch này và làm phát sinh bệnh tự miễn trong 4 trường
hợp sau:
Trường hợp 1
Có
sự trùng hợp ngẫu nhiên giữa một kháng nguyên lạ với một thành phần của
cơ thể. Cơ thể sản xuất kháng thể chống lại kháng nguyên này (ví dụ vi
khuẩn) đồng thời chống luôn bộ phận có cấu trúc giống kháng nguyên. Ví
dụ bệnh thấp tim, chất hexosamine có trong liên cầu (tan huyết nhóm A
cũng có trong glucoprotein ở van tim, do đó kháng thể kháng liên cầu,
kháng luôn van tim.
Trường hợp 2
Do
tác động của nhiễm độc, nhiễm khuẩn, chấn thương, một số tế bào của cơ
thể bị tỏn thương và thay đổi cấu trúc trở thành vật lạ, các tế bào miễn
dịch coi chúng là kháng nguyên lạ và sản xuất kháng thể chống lại. Ví
dụ viêm gan virus.
Trường hợp 3
Một
số bộ phận của cơ thể máu không tiếp xúc trực tiếp, tế bào miễn dịch
không đến được, khi chúng xuất hiện trong máu (ví dụ chấn thương) cơ thể
sẽ tạo kháng thể chống lại, như trong bệnh nhân mắt, khi bị tổn thương
một bên làm xuất hiện kháng thể chống luôn mắt kia gây nên bệnh viêm mắt
giao cảm (ophtalmie sympathique).
Trường hợp 4
Do
tổn thương hoặc suy yếu khả năng kiểm soát của chính các tế bào miễn
dịch. Hệ thống ức chế tổng hợp tự kháng thể bị suy yếu, do vậy các tế
bào miễn dịch phát triển và sản xuất kháng thể chống lại các thành phần
vốn vẫn quen thuộc của cơ thể. Ví dụ một số bệnh của hệ liên võng nội mô
thường có kèm thiếu máu huyết tán do xuất hiện các kháng thể hồng cầu
tự sinh.
Các loại kháng thể và hậu quả các phản ứng
Các loại tự kháng thể
Các
tự kháng thể trong bệnh tự miễn tác động gây bệnh bằng nhiều cách như
huỷ hoại, làm thương tổn, có khi lại kích thích cơ quan đích gây nên
những biểu hiện khác nhau. Có hai loại tự kháng thể
Tự
kháng thể chính: gây bệnh thật sự như tự kháng thể chống bề mặt hồng
cầu, chống bạch cầu, chống màng nền, chống thụ thể acetylcholine.
Tự
kháng thể phụ: đi kèm bệnh tự miễn chứ không quyết định sự gây bệnh. Ví
dụ: tự kháng thể chống tế bào thành dạ dày trong bệnh Hashimoto là một
tự kháng thể không đặc hiệu cho cơ quan bệnh là giáp, tự kháng thể chống
các hạt nhân, chống ti lạp thể, chống cơ tim.
Hậu quả của các phản ứng tự miễn
Tiêu tế bào do thực bào, bổ thể, lympho T độc tế bào (thiếu máu tan máu).
Lắng đọng phức hợp miễn dịch tại các mô đích (lupus ban đỏ hệ thống).
Viêm mạn với thâm nhiễm tế bào đơn nhân (Hashimoto).
Hoại tử tế bào, thoái hóa dạng tơ huyết (viêm cầu thận cấp).
Kích thích tế bào (Basedow).
Đặc tính chung bệnh tự miễn
Với
quan niệm về bệnh tự miễn như đã nêu trên do đó có sự lạm dụng trong
chẩn đoán, ngoài vẫn còn có nhiều ý kiến ngược nhau trước nhiều bệnh có
thật sự là bệnh tự miễn hay không ? Nói chung hiểu biết về bệnh vẫn còn
phải tiếp tục tìm hiểu để thống nhất. Sau đây là một số đặc điểm của
bệnh tự miễn:
Bệnh
thường gặp ở người trẻ hoặc đứng tuổi (thường từ 20 đến 40 tuổi). Trẻ
em và người già ít gặp hơn. Nữ gặp nhiều hơn nam. Thường có yếu tố di
truyền, có tính chất gia đình.
Bệnh
tiến triển từng đợt, nặng dần (vì vậy bệnh có tên là bệnh tự duy trì)
diễn tiến thường phức tạp, đa dạng từ cấp tính, tối cấp đến nhẹ, dai
dẳng.
Có thể tổn thương đồng thời nhiều cơ quan.
Không
có nguyên nhân trực tiếp rõ rệt. Tuy nhiên bệnh có thể xảy ra sau các
tình huống sau: Nhiễm độc, nhiễm trùng cấp, mạn, thai nghén, sang chấn
tinh thần hoặc thể chất, tác nhân vật lý như cháy nắng, K, sau dùng một
số thuốc, bệnh có thể đáp ứng khá tốt với một số thuốc ức chế miễn dịch
nhất là corticoide.
Về
phương diện chẩn đoán, không có tiêu chuẩn chung cho các bệnh tự miễn
tuy nhiên bệnh cảnh lâm sàng, diễn tiến và một số xét nghiệm gợi ý hướng
đến bệnh tự miễn như giảm vô cớ hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu có thể kèm
tăng lympho, tăng tốc độ lắng máu, tăng gamma - globulin...
Chẩn
đoán chính xác dựa trên sự phát hiện các tự kháng thể, càng đặc hiệu,
càng chính xác, điều này chỉ có thể được thực hiện ở các trung tâm
chuyên sâu.
Xếp loại bênh tự miễn
Những
bệnh tự miễn là tập hợp một nhóm bệnh không đồng nhất, cơ chế sinh bệnh
chưa được hiểu rõ hoàn toàn và sự xếp loại còn tranh cải. Sau đây là sự
xếp loại được nhiều người đồng ý:
Các bệnh tự miễn chắc chắn
Đã
phát hiện được tự kháng nguyên và tự kháng thể. Bệnh đã có thể thực
nghiệm được, ví dụ bệnh Lupus ban đỏ hệ thống, hội chứng Goodpasture,
bệnh nhược cơ, viêm tuyến giáp Hashimoto.
Các bệnh rất có thể
Đãî phát hiện được tự kháng thể, ví dụ thiếu máu ác tính với tự kháng thể chống yếu tố ngoại lai và chống tế bào thành của niêm mạc dạ dày.
Các bệnh có thể
Do các biểu hiện lâm sàng và sự cải thiện sau điều trị bằng ức chế miễn dịch, ví dụ viêm loét đại tràng xuất huyết.
Phản ứng
Gồm
nhiều bệnh, đã phát hiện được tự kháng thể nhưng người ta không rõ các
tự kháng thể này có đóng vai trò gây bệnh hay chỉ đơn thuần như một dấu
chỉ điểm của bệnh. Ví dụ kháng thể kháng myeline trong bệnh xơ cứng rải
rác.
Một số bệnh tự miễn
Các bệnh chất tạo keo
Lupus ban đỏ hệ thống Do các tự kháng thể chống các kháng nguyên nhân, như ADN, Ro, Sm.
Thường
xảy ra ở nữ, trẻ (90%). Tổn thương nhiều cơ quan. Da: ban hình cánh
bướm ở mặt, loét niêm mạc miệng, rụng tóc. Cơ xương khớp: viêm, đau cơ,
viêm nhiều khớp. Thận: gây hội chứng thận hư. Thần kinh: tổn thương
nhiều nơi của thần kinh. Tim mạch: viêm màng ngoài tim khô, có dịch, co
thắt, viêm cơ tim, viêm nội tâm mạc, nhồi máu cơ tim do viêm mạch vành,
huyết khối mao mạch. Phổi: viêm phổi kèm theo xẹp, xơ phổi, viêm màng
phổi. Huyết học: rối loạn đông máu, thiếu máu, tan máu. Tiêu hóa: tiêu
chảy, thủng ruột, giả tắc ruột, viêm tụy cấp, tăng men gan. Mắt: viêm
mạch máu võng mạc gây mù, viêm loét kết mạc, viêm thần kinh thị, khô
mắt.
Viêm khớp dạng thấp Do tự kháng thể kháng HLA DR4, DR1, nguyên nhân khởi phát có thể là virus Epstein Barr.
Hội chứng Sjorgen Do tự kháng thể chống tế bào thượng bì ống nước bọt, tự kháng thể chống kháng nguyên nhân, gây hội chứng khô (mắt, nước bọt, mũi).
Bệnh nội tiết
Viêm
tuyến giáp mạn Hashimoto Bệnh do tự kháng thể chống Thyroglobulin,
chống Thyroperoxidase, vi tiểu thể. Thường xảy ra ở nữ, tuyến giáp có
thể lớn hay không, thâm nhiễm lympho. Giai đoạn đầu có thể có cường giáp
thoáng qua sau đó suy giáp, diễn tiến chậm, có thể kèm các bệnh tự miễn
khác.
Bệnh Basedow do tự kháng thể TSI, TBII, TGI.
Đái tháo đường (typ 1) do tự kháng thể kháng đảo Langerhans, kháng glutamic acid decarboxylase, kháng tế bào bê ta.
Một số bệnh nội tiết tự miễn khác:
Addison tiên phát: TKT chống vỏ thượng thận.
Suy cận giáp tiên phát: TKT chống tế bào chính của tuyến cận giáp.
Vô tinh trùng tiên phát tự miễn: TKT chống tinh trùng.
Huyết học
Thiếu
máu ác tính Biermer do TKT chống tế bào thành, TKT chống FI và TKT
chống FI + Vitamin B12 gây thiếu máu ưu sắt, teo niêm mạc lưỡi, dạ dày
kèm thâm nhiễm lympho.
Thiếu
máu tan máu tự miễn do TKT chống KN bề mặt hồng cầu tự nhiên, biểu hện
tan máu cấp hay mạn, xảy ra ở mọi lứa tuổi. Cấp, thường xảy ra ở trẻ em
sau một số bệnh cấp như: viêm phổi do Mycoplasma, Eaton, quai bị, zona,
thủy đậu, cúm, viêm gan siêu vi... Mạn, thường xảy ở ngưới lớn sau các
bệnh mạn như bạch cầu lympho mạn, lupus ban đỏ hệ thống, Hodgkin, nhược
cơ, viêm đại trực tràng chảy máu, Basedow, xơ gan...
Giảm
tiểu cầu tự miễn Do TKT chống tiểu cầu, bệnh ít gặp hơn, gây ban xuất
huyết giảm tiểu cầu mạn đơn độc hay kết hợp một số bệnh mạn như bệnh
bạch cầu lympho mạn, hodgkin, lympho không hodgkin, u tuyến ức, thiếu
máu tan máu TM, lympho ban đỏ hệ thống...
Bất sản tủy do tự kháng thể chống tế bào mầm tủy xương.
Giảm bạch cầu do tự kháng thể chống bạch cầu.
Thần kinh
Bệnh nhược cơ nặng.
Xơ
cứng rải rác do tự kháng thể chống myeline thường xảy ra ở người trẻ
(15-40 tuổi) với các thương tổn thần kinh đa dạng, rối loạn cảm giác vận
động, tiểu não, các thương tổn về mắt, thương tổn tủy xương, với các
bất thường về tinh thần. Bệnh diễn tiến từng đợt nặng dần.
Hội
chứng Guillain Barré viêm đa rễ dây thần kinh, chưa hiện rõ về TKT, gây
liệt ngoại biên 2 chi dưới, dịch não tủy: phân ly đạm tế bào.
Tiêu hóa gan mật
Xơ gan do mật tiên phát do tự kháng thể kháng Mitochondrie.
Viêm gan mạn tấn công do tự kháng thể chống cơ trơn, tự kháng thể chống lipoprotein của tế bào gan.
Bệnh Coeliakie do tự kháng thể chống Reticuline.
Viêm loét đại tràng xuất huyết: chưa tìm thấy tự kháng thể.
Bệnh
Crohn gây hẹp từng đoạn đường tiêu hóa nhất là đại tràng, lâm sàng và
cận lâm sàng dễ lẫn với lao đại tràng, chưa tìm thấy tự kháng thể.
Thận
Một số bệnh viêm cầu thận và viêm ống thận kễ: do tự kháng thể chống kháng nguyên nhân và kháng nguyên u, kháng IgG.
Hội chứng Goodpasture: do tự kháng thể chống màng nền cầu thận.
Phổi
Hội chứng Goodpasture: do tự kháng thể chống màng nền phế nang phổi. Viêm phế nang xơ hóa vô căn. Bệnh u hạt của Wegener, hai bệnh sau này chưa rõ tự kháng thể.
Da
Pemphigus
thật sự: Tự kháng thể chống chất liên bào của thượng bì. Pemphigus
botü: tự kháng thể chống màng nền của thượng bì. Vitiligo tự kháng thể
chống melanocyte.
Viêm mạch
Như
các bệnh viêm động mạch thái dương, bệûnh u hạt của Wegener, bệnh Churg
Strauss, viêm nút quanh động mạch. Các bệnh này chưa rõ tự kháng thể.
Kết luận
Bệnh
tự miễn là một tập hợp bệnh phức tạp mà nguyên nhân gây bệnh, cơ chế
bệnh sinh còn nhiều điều chưa rõ, do đó điều trị còn nhiều điều chưa như
ý muốn, trong tương lai điều trị đặc hiệu bằng kháng thể đơn dòng có
nhiều hứa hẹn.
0 nhận xét :
Đăng nhận xét