Hiển thị các bài đăng có nhãn bệnh ngoài da. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn bệnh ngoài da. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 12 tháng 10, 2013

(SKDS) - Bạch biến là tình trạng mất sắc tố làm da trắng hoàn toàn thành từng đốm, từng mảng khu trú hoặc rải rác toàn thân, do các tế bào sắc tố bị tiêu hủy và biến mất. Bệnh chiếm khoảng 1% dân số, gặp cả 2 giới nhưng có xu hướng nữ nhiều hơn nam. Bệnh có thể bắt đầu ở bất cứ lứa tuổi nào, nhưng hay gặp ở tuổi trẻ.

Vì sao bạch biến?
Xuất hiện bệnh trước 20 tuổi chiếm 50%. Cho đến nay, người ta vẫn chưa bết rõ được nguyên nhân gây bệnh. Có 3 giả thuyết được coi là tham gia vào cơ chế sinh bệnh bạch biến:
Thuyết tự miễn: có thể do rối loạn đáp ứng miễn dịch làm xuất hiện một số tế bào lympho hoạt hóa phá hủy một cách chọn lọc tế bào sắc tố. Nhưng cơ chế gây hoạt hóa các tế bào lympho này thì người ta không giải thích được.
Thuyết thần kinh: dựa vào sự tương tác của tế bào sắc tố và tế bào thần kinh.
Thuyết tự phá hủy: người ta cho rằng tế bào sắc tố tự phá hủy bởi chất độc được tạo ra trong quá trình tổng hợp sắc tố bình thường.
Liên quan đến gia đình (di truyền): nghiên cứu trong gia đình người bị bạch biến, khoảng 30% bệnh nhân thấy trong gia đình cũng có người thân bị bạch biến.
Các yếu tố khác: sang chấn tâm lý, tác động của hoá chất, rối loạn chức năng một số phủ tạng… có thể cũng là những điều kiện thuận lợi để xuất hiện thương tổn bạch biến.

 Tổn thương bạch biến
Biểu hiện bệnh
Thương tổn bệnh bạch biến đặc trưng là những mảng da màu trắng sữa, rải rác khắp cơ thể, có hình dạng và kích thước khác nhau. Bờ thương tổn giới hạn rõ, thường ngoằn ngoèo không đều, đôi khi có màu sẫm hơn. Soi đèn Wood sẽ thấy da thương tổn bị mất melanin. Mặt thương tổn bằng phẳng với da lành, không có vảy, không thâm nhiễm, không dày sừng, không teo da, có thể trắng đều hoặc còn những chấm màu nâu.
Khởi đầu có thể thấy một hoặc nhiều thương tổn, thường khu trú ở những vùng hở. Khi có nhiều thương tổn thì thường được phân bố ở cả hai bên cơ thể, đôi khi có tính chất đối xứng. Kích thước thương tổn lúc đầu nhỏ dạng chấm trắng, sau đó liên kết lại với nhau thành đám, thành mảng lớn. Lông, tóc tại vùng bị bệnh thường cũng có màu trắng.
Vị trí thương tổn hay gặp ở một số vùng da của cơ thể như: vùng da bình thường có tăng sắc tố (hố nách, cơ quan sinh dục ngoài), vùng hở tiếp xúc với ánh sáng mặt trời, vùng quanh các hốc tự nhiên, chỗ xương lồi ra (đầu gối, mào xương chày, mắt cá, gai chậu, quanh các nốt ruồi, bớt, vùng da thường xuyên bị cọ xát (quai áo lót, thắt lưng, vết bỏng) gọi là hiện tượng Köbner. Thương tổn ở niêm mạc, lòng bàn tay, bàn chân hay gặp ở người có màu da đậm. Có thể gặp thương tổn ở da đầu nhưng được che lấp bằng một đám tóc trắng.
 Tiến triển của bệnh không theo quy luật, thường mạn tính dai dẳng trong nhiều năm, có những đợt tăng lên vào mùa hè và giảm đi vào mùa đông. Khoảng 15-30% bệnh nhân bệnh khỏi.
Trị bệnh bạch biến
Mục tiêu điều trị chủ yếu là nhằm cải thiện hình thức, khôi phục màu da bị tổn thương hoặc làm cho da có màu đồng đều bằng cách phá hủy sắc tố còn lại. Thời gian điều trị thường lâu, kéo dài từ 6 tháng đến một năm hoặc nhiều năm. Vì vậy, người bệnh phải kiên trì phối hợp chặt chẽ với thầy thuốc để điều trị.
Các phương pháp điều trị bệnh bạch biến hiện nay gồm: dùng thuốc toàn thân hay tại chỗ phối hợp với trị liệu ánh sáng, phẫu thuật ghép da, cấy tế bào sắc tố và các liệu pháp phối hợp (được sử dụng cùng với phương pháp điều trị phẫu thuật hoặc thuốc):
Corticoid: dùng tại chỗ có tác dụng phục hồi lại sắc tố cho da, đặc biệt được sử dụng ngay khi bệnh mới xuất hiện. Tuy nhiên, khi sử dụng các corticoid tại chỗ lâu dài có thể gây ra những tác dụng không mong muốn. Corticoid tại chỗ có thể sử dụng phối hợp với psoralen (Meladinine) tại chỗ sẽ phát huy được tác dụng hiệp đồng và hạn chế được tác dụng không mong muốn của mỗi loại thuốc khi dùng đơn độc. Một số công trình nghiên cứu sử dụng corticoid toàn thân liều thấp phối hợp với bôi meladinine cũng thấy có kết quả.
Psoralen: là một loại thuốc có tính chất cảm quang, được sử dụng phổ biến và có hiệu quả điều trị bệnh bạch biến và một số bệnh da khác. Psoralen có dạng bôi và dạng uống. Tùy theo mức độ của của thương tổn có thể dùng bôi hoặc uống hoặc phối hợp với các phương pháp điều trị khác, đặc biệt là phối hợp với phơi nắng mặt trời hoặc chiếu tia cực tím, được gọi là trị liệu psoralen kết hợp với tia cực tím bước sóng A (PUVA).
 Trị liệu PUVA: sau khi uống hoặc bôi psoralen thì phơi nắng mặt trời hoặc chiếu tia cực tím A (UVA) theo một chỉ định về thời gian hết sức nghiêm ngặt và được thầy thuốc theo dõi chặt chẽ để đề phòng những tác dụng không mong muốn có thể xảy ra.
Uống psoralen kết hợp với chiếu tia cực tím A thường được sử dụng cho những bệnh nhân có diện thương tổn rộng (hơn 20% diện tích cơ thể) hoặc cho những người không đáp ứng với liệu pháp PUVA tại chỗ. Psoralen đường uống không nên dùng cho trẻ em dưới 10 tuổi bởi vì nó làm tăng nguy cơ tổn thương mắt như đục thủy tinh thể. Đối với trị PUVA uống thì phải uống psoralen khoảng 2 giờ trước phơi nắng mặt trời hoặc chiếu UVA, điều trị hai hoặc ba lần một tuần, không bao giờ điều trị 2 ngày liên tiếp.
Tác dụng không mong muốn của psoralen đường uống là gây cháy nắng, buồn nôn và nôn, ngứa, tóc tăng trưởng bất thường và tăng sắc tố. Liệu pháp PUVA cũng có thể làm tăng nguy cơ ung thư da, mặc dù nguy cơ là tối thiểu ở liều sử dụng cho bạch biến.
Tacrolimus (Talimus, Rocimus, Protopic): thuốc bôi thuộc nhóm ức chế bơm canxi. Thuốc phát huy tác dụng điều trị bệnh bạch biến khi kết hợp với phơi nắng hoặc chiếu UVB.
Các thuốc điều trị tại chỗ khác: một số báo cáo cho thấy một số đồng đẳng của vitaminD3 (Daivonex) cũng có tác dụng điều trị bệnh bạch biến.
Làm mất sắc tố da: là sử dụng các phương pháp làm mờ phần da bình thường còn lại trên cơ thể để phù hợp với màu da ở vùng thương tổn đã bị trắng. Áp dụng cho những người bị bạch biến trên 50% diện tích da của cơ thể. Bôi kem 20% monobenzylether của hydroquinon (monobenzone) hai lần một ngày vào các vùng sắc tố cho đến khi chúng có màu phù hợp với màu da bệnh. Cần phải tránh tiếp xúc trực tiếp da với da của người khác ít nhất 2 giờ sau khi bôi thuốc. Bởi vì, thuốc có thể lan sang gây mất sắc tố da của họ. Tác dụng phụ chủ yếu của trị liệu mất sắc tố da là gây viêm da (tấy đỏ và sưng), có thể ngứa hoặc da khô. Trị liệu làm mất sắc tố có xu hướng tồn tại vĩnh viễn và không dễ phục hồi lại được. Ngoài ra, một số người sẽ bị bất thường nhạy cảm với ánh sáng mặt trời.
Phẫu thuật: cắt bỏ thương tổn hoặc cấy ghép da tự thân. Tuy nhiên, điều trị phẫu thuật chỉ thực hiện được ở những cơ sở có đủ điều kiện về vật chất, trang thiết bị và có đội ngũ cán bộ y tế với trình độ chuyên môn kỹ thuật cao. Trong tương lai, việc nuôi cấy tế bào sắc tố da có thể được triển khai áp dụng để điều trị bệnh bạch biến. Hy vọng phương pháp này sẽ mang lại hiệu quả điều trị cao.
Hóa trang: có thể sử dụng một số loại mỹ phẩm hoặc màu để ngụy trang những đám thương tổn bạch biến, một giải pháp tạm thời để giải quyết vấn đề thẩm mỹ khi cần thiết cho bệnh nhân.

Hiện nay vẫn chưa có thuốc điều trị đặc hiệu bệnh bạch biến. Nhưng nếu được chẩn đoán và điều trị sớm bằng những phương pháp phù hợp thì bệnh sẽ được cải thiện, nhiều trường hợp khỏi hoàn toàn. Tuy nhiên, khi điều trị bệnh nhân phải kiên trì, phối hợp chặt chẽ với thầy thuốc để theo dõi diễn biến của bệnh và phòng tránh những tác dụng không mong muốn của các phương pháp điều trị. 

Thứ Năm, 10 tháng 10, 2013

Pellagre là bệnh ngoài da gây nên do rối loạn chuyển hoá vitamin PP. Bệnh thường xuất hiện ở vùng hở, nặng lên vào mùa xuân hè thuyên giảm vào mùa đông. Bệnh không tự khỏi nếu không được điều trị, ngoài tổn thương ở da còn tổn thương nội tạng như tiêu hoá, thần kinh và trường hợp nặng có thể gây tử vong.


Bệnh pellagre do rối loạn chuyển hoá vitamin PP (thường là do thiếu vitamin PP), nguyên nhân thiếu vitamin PP rất đa dạng. Có thể do một trong những nguyên nhân sau:
Ăn chế độ ăn ngô hoặc lúa miến nguyên chất (không chế biến hoặc chỉ ăn ngô và ăn lúa miến mà không ăn thêm các loại ngũ cốc khác); Rối loạn hấp thụ của cơ quan tiêu hoá. Trường hợp này ngoài thiếu  vitamin PP còn kèm theo thiếu các vitamin nhóm B khác như B1, B2, B6... Rối loạn chuyển hoá acid amin tryptophan. Ăn chế độ ăn hoàn toàn bằng rau; Do thuốc: Một số thuốc làm ảnh hưởng tới chuyển hoá và hấp thụ vitamin PP như rimifon, sulfamid, thuốc chống co giật, thuốc chống trầm cảm hoặc do khối u ác tính.
Chẩn đoán
Thương tổn da:
Bắt đầu là một đám dát đỏ giới hạn rõ rệt. Trên dát đỏ có vảy da, có khi có bọng nước, mụn nước. Nếu thương tổn mới phát, da vùng bị bệnh sẽ phù nhẹ, dần dần da trở nên khô dày và sẫm màu. Bệnh nhân có cảm giác ngứa, nóng ở vùng thương tổn. Thương tổn có tính chất đối xứng.
Vị trí:Các thương tổn có ranh giới rõ rệt, khu trú ở vùng hở (vùng bị ánh sáng mặt trời chiếu vào).Ngoài các vị trí hay gặp nói trên, bả vai cánh tay, khuỷu tay, đầu gối cũng bị thương tổn (các thương tổn này thường gặp ở bệnh nhân mặc quần đùi áo may ô).
Thương tổn niêm mạc:
Hồng ban dạng Pellagre: Đây là bệnh pellagre không điển hình, các biểu hiện lâm sàng chủ yếu xuất hiện trên da. Thương tổn cơ bản là da đỏ, bong vảy da. Bệnh khu trú ở vùng tiếp xúc với ánh nắng (vùng hở). Nếu không chữa bệnh sẽ chuyển sang bệnh pellagre thật sự.
Thương tổn nội tạng:
Cơ quan tiêu hoá: Tiêu chảy là triệu chứng thường gặp của bệnh pellagre. Ngoài ra còn có các dấu hiệu khác như chán ăn, buồn nôn, đôi khi có rối loạn chức năng gan. Các triệu chứng rối loạn tiêu hoá thường xuất hiện trước khi có thương tổn da.
Thần kinh: Bệnh nhân thường đau đầu, chóng mặt, đau các dây thần kinh ngoại biên, giảm trí nhớ, có khi có dấu hiệu thiểu năng tinh thần, rối loạn thị giác.

Để chẩn đoán xác định
Dựa vào tổn thương da, niêm mạc, tiêu hoá, thần kinh như mô tả ở trên. Thương tổn da khu trú ở vùng hở. Bệnh xuất hiện và nặng lên vào mùa hè. Điều trị thử bằng vitamin PP thấy bệnh giảm rõ rệt. Định lượng nồng độ vitamin PP  trong máu giảm. Mô bệnh học.
Chẩn đoán phân biệt
Viêm da tiếp xúc:
Một số hoá chất nhất là hoá chất bay hơi gây ra viêm da tiếp xúc ở vùng hở, chẩn đoán dựa vào tiền sử tiếp xúc với hoá chất. Diễn biến bệnh cấp tính, bệnh có thể xuất hiện vào bất kỳ lúc nào nếu tiếp xúc với hoá chất gây dị ứng. Loại bỏ hoá chất gây dị ứng bệnh sẽ khỏi.
Lupus ban đỏ:
Ban hình cánh bướm, tăng nhạy cảm ánh nắng, ban đỏ hình đĩa, đau khớp, loét niêm mạc, biểu hiện tâm thần kinh, tổn thương thận, máu giảm một hay cả ba dòng, tràn dịch đa màng, biến đổi miễn dịch, kháng thể kháng phospholipid. Nếu có 4 trên 11 tiêu chuẩn thì chẩn đoán là lupus.
Viêm da do ánh nắng:
Bệnh phát vào mùa xuân hè, có yếu tố cảm quang ở trong các lớp biểu bì da, nếu loại bỏ các chất cảm quang này và hạn chế ra nắng bệnh giảm hay khỏi hoàn toàn.
Điều trị
Thuốc dùng ngoài:
- Thuốc bong vảy, mỡ acid salicylic.
- Kem kẽm.
- Kem chống nắng.
Thuốc dùng trong:
- Vitamin PP là thuốc điều trị đặc hiệu bệnh này. Nếu điều trị bằng vitamin PP (nicotinnamid) mà không khỏi thì không phải là bệnh pellagre.
- Lưu ý:  Phải uống thuốc sau khi ăn no. Thuốc có thể gây dị ứng.
- Nên cho thêm vitamin B1, B2, B6.
- Điều trị bằng vitamin PP thương tổn da sẽ giảm và mất đi nhanh nhất và trước nhất. Các dấu hiệu rối loạn thần kinh và rối loạn tiêu hoá sẽ giảm và mất đi sau.
 Tiên lượng: Bệnh thường xuất hiện và nặng lên vào mùa hè. Mùa đông giảm đi chứ không khỏi hẳn. Nếu không được điều trị bệnh tiến triển càng ngày càng nặng. Da dần dần thâm, khô, dày, bong vảy liên tục. Các biểu hiện nội tạng sẽ nặng dần lên nhất là rối loạn tiêu hoá và đau dây thần kinh ngoại biên. Một số trường hợp nặng nếu không điều trị kịp thời có thể dẫn tới tử vong.
Phòng bệnh
Nên ăn các loại ngũ cốc khác nhau tránh chỉ ăn hai loại ngũ cốc là ngô và lúa miến đơn thuần.

Thứ Tư, 9 tháng 10, 2013

Chàm đầu chi là loại bệnh ngoài da phổ biến và là bệnh thường gặp ở những vùng khí hậu nhiệt đới.

Biểu hiện lâm sàng của bệnh rất đa dạng nhưng thường có đặc điểm chung như: ngứa ngáy, khó chịu; mụn nước thành từng mảng, giới hạn không rõ, tiến triển thành từng đợt, dai dẳng và hay tái phát.

 Biểu hiện bệnh chàm ở đầu chi.        Ảnh: TL
Bệnh thường tiến triển theo từng giai đoạn. Lúc đầu, mụn nước mọc rải rác hoặc tập trung ở rìa các ngón chân, tay hoặc kẽ chân với kích thước nhỏ như đầu đinh ghim, đôi khi to rõ như bọng nước, gây ngứa ngáy trên da. Mỗi đợt có thể kéo dài từ một vài ngày đến một vài tuần. Mụn nước có thể vỡ đi do bệnh nhân gãi hoặc vỡ tự nhiên. Đến giai đoạn này, mảng chàm lỗ chỗ nhiều vết trợt hình tròn còn gọi là giếng chàm (giai đoạn này dễ bị bội nhiễm). Huyết thanh chảy ra ngoài, nếu lấy bông hay giấy đắp lên thì huyết thanh sẽ tạo thành một mảng dày. Dần dần, sự xuất tiết giảm, vảy tiết khô đọng rồi bong ra để lộ lớp da nhẵn bóng mỏng. Lớp da vừa tái tạo, tự rạn nứt, bong thành mảng dày hoặc vụn như cám, hoặc da dày lên, tăng sắc tố, có kẻ ô gọi là liken hóa.
Sau một thời gian khá lâu nếu không có mụn nước tái phát da sẽ trở lại bình thường không có sẹo, bởi vì tổn thương chỉ nằm ở lớp thượng bì.
Khi mắc bệnh này, người bệnh cần đến gặp bác sĩ chuyên khoa để được chỉ định dùng thuốc bôi, uống. Không nên tự mua thuốc về bôi vì có thể làm bệnh nặng thêm. Bên cạnh đó, người bệnh nên tránh các loại chất tẩy rửa như xà phòng, nước rửa bát... Người bệnh cũng tránh những loại giày dép có màu và cứng gây chà sát lên vùng da bị chàm. Không được tự ý bóc da hay kỳ cọ vì sẽ dễ gây bội nhiễm. Bạn nên kiên trì điều trị theo chỉ dẫn của bác sĩ.

Thứ Năm, 3 tháng 10, 2013

(SKDS) – Việt Nam là một đất nước nhiệt đới đón nhận rất nhiều ánh sáng mặt trời, đặc biệt là vào mùa hè. Vì vậy, các bệnh da gây nên do ánh sáng mặt trời và các bệnh da nặng lên do ánh sáng mặt trời ở nước ta là khá phổ biến.
Nhóm các bệnh da có biểu hiện ngứa liên quan tới ánh sáng mặt trời vốn đã tồn tại từ rất lâu, nó ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng cuộc sống của người bệnh. Chúng tôi xin giới thiệu một vài bệnh da phổ biến hay gặp vào mùa hè.


 Tổn thương da do vết cắn của bọ chét.
Côn trùng đốt:
Mùa hè nóng ẩm là điều kiện rất tốt cho các loại côn trùng phát triển như muỗi, bọ chét... Một số bệnh nhân có hiện tượng dị ứng với chất tiết của côn trùng tại vết đốt, dẫn đến phản ứng mạnh hơn so với người bình thường. Biểu hiện là: tại vị trí vết đốt nhanh chóng xuất hiện sẩn đỏ phù nề, ngứa nhiều. Thương tổn không chỉ xuất hiện tại vết đốt mà còn lan cả sang vùng da lành với các sẩn đỏ, mụn nước nhỏ ngứa nhiều. Thương tổn thoái lui để lại dát thâm. Bệnh tái đi tái lại nhiều lần tạo nên hình ảnh tổn thương ở các vùng da hở.
Mày đay do ánh sáng: Bệnh nhân bị nổi các sẩn phù tại vùng da tiếp xúc với ánh nắng, ngứa nhiều. Tiến triển cấp tính, xuất hiện nhanh và thoái lui nhanh khi bệnh nhân đi vào nơi bóng mát.
 Sẩn ngứa do ánh sáng: Ở những vùng da tiếp xúc với ánh nắng như mặt duỗi cẳng tay, cẳng chân, mu tay, mu chân, mặt, tam giác cổ áo... xuất hiện các sẩn chắc, dày sừng, ngứa nhiều. Bệnh nặng lên vào mùa hè và thoái lui vào mùa thu, mùa xuân
 Mày đay do ánh sáng thường xuất hiện ở vùng da tiếp xúc nhiều với ánh nắng.
Điều trị và phòng bệnh
Loại bỏ căn nguyên gây bệnh: Sử dụng thuốc diệt côn trùng, đi ngủ nằm màn (trong trường hợp bị côn trùng đốt); tránh tiếp xúc trực tiếp với ánh nắng, sử dụng các loại kem chống nắng (nếu bệnh nhân bị mày đay ánh nắng hoặc sẩn ngứa do ánh nắng), mặc quần áo dài tránh bị côn trùng đốt.

Điều trị triệu chứng: Sử dụng corticoid bôi tại chỗ; thuốc kháng histamin uống để giảm ngứa; uống các loại vitamin: C, B; ăn nhiều hoa quả, uống nhiều nước.  

Thứ Tư, 2 tháng 10, 2013

Có lẽ giờ đây, khi nhắc tới bệnh ghẻ, nhiều người, nhất là những người sống ở thành phố sẽ gạt phăng vì nghĩ rằng đây là bệnh chỉ gặp ở những nơi có điều kiện dinh dưỡng và vệ sinh kém. Tuy nhiên, thực tế lại cho thấy rằng, ngay cả những thành phố lớn, bệnh ghẻ vẫn tồn tại và nhiều khi bị chẩn đoán nhầm. Do đó mà có những gia đình bị ghẻ cả nhà tro

ng suốt 2 năm trời vẫn chưa được chẩn đoán và điều trị đúng.
Cái ghẻ xâm nhập qua da gây bệnh
Căn nguyên gây bệnh ghẻ là một loại ký sinh trùng có tên sarcoptes scabiei, có nơi còn gọi là con mạt ngứa (itch mite). Con cái có kích thước từ 0.3-0.5mm. Cái ghẻ xâm nhập vào đường biểu bì da, đào hầm và đẻ trứng. Chúng đẻ từ 2-3 trứng/ngày và đẻ liên tục trong 4-6 tuần liền. Trứng nở thành ấu trùng và phát triển thành con trưởng thành chỉ trong vòng 3-4 ngày. Lây bệnh ghẻ là do tiếp xúc trực tiếp với người bị ghẻ, nằm chung giường, mặc chung quần áo, dùng chung khăn tắm. Cái ghẻ có thể sống ngoài cơ thể được 2-3 ngày, điều này rất có ý nghĩa trong việc tư vấn điều trị.

 Tổn thương do ghẻ có thể nhầm lẫn với eczema.
Ngứa ghẻ có thể nhầm lẫn với eczema
Người bị nhiễm ký sinh trùng ghẻ lần đầu tiên trong vòng 2 tuần đầu hoàn toàn chưa có biểu hiện ngứa do mới bị ghẻ xâm nhập nên chưa có sự phản ứng lại (hay là sự nhạy cảm). Việc chẩn đoán ghẻ rất dễ, ai đó từng bị ghẻ đều có thể nhận ra được, nhưng đôi khi cũng bị nhầm lẫn tại các phòng khám chuyên khoa vì ghẻ lâu ngày tạo thành eczema hóa hoặc bội nhiễm hoặc ghẻ vảy. Dựa vào triệu chứng bệnh ngứa nhiều về đêm, ngứa tăng khi trời nóng, khi lao động, chơi thể thao. Mụn nước ở vị trí đặc hiệu, kẽ ngón tay, lằn chỉ cổ tay, nếp gấp bàn tay, vùng thắt lưng, cạp quần, bẹn,  đùi, sinh dục, nách, núm vú ở phụ nữ. Điều đặc biệt là ghẻ không thấy ở mặt, đầu và 1/3 trên lưng. Đối với trẻ em dưới 2 tuổi, ghẻ có thể bị toàn thân. Có thể dùng kính lúp soi bắt được cái ghẻ nằm ở cuối đường hầm trong da.
Chữa ghẻ bằng cả đông y và tây y
Đông y thường dùng lá cây ba gạc, lá đào đun nước tắm, nhựa cây máu chó bôi tại chỗ. Tắm nước muối, tắm biển… Tây y có thể dùng một trong những loại thuốc sau: D.E.P.(dietyl phtalat); benzyl benzoat (ascabiol, scabitox, zylate); eurax (crotamintan); permethrin cream 5% (elimite); lindane (gamma–benzen hexachlorid, kwell).
Ngoài ra, cần đặc biệt chú ý, khi điều trị ghẻ, phải điều trị cho cả những người sống chung trong gia đình hoặc trong cùng đơn vị, ký túc xá sinh viên, tẩy uế quần áo, ga gối. Trong mùa hè, phơi quần, áo, ga, gối 3-4 nắng. Quần áo giặt để 1 tuần sau mặc lại. Do bệnh ghẻ có thể xuất hiện ở bất kỳ địa phương nào, kể cả nông thôn hay thành thị nên nếu nghi ngờ mắc bệnh, không nên chủ quan để bệnh kéo dài dai dẳng.

Thứ Sáu, 27 tháng 9, 2013

Bệnh eczema được biết đến với một cái tên khác thông thường hơn là bệnh chàm. Việc điều trị nói chung không khó, có thể tiến hành ở các bệnh viện đa khoa. Vấn đề quan trọng là sự giữ gìn của bệnh nhân để không tái phát.

Nổi eczema do đi… ăn cỗ
Ông Nguyễn Văn Khương, 60 tuổi (Hưng Yên) là một nạn nhân điển hình của bệnh này. Ông cho biết mình bị nổi nốt đầy chân tay sau một lần... ăn cỗ. Thường thì ông không mấy khi uống rượu. Nhưng hôm đó, vì nhiều lý do mà ông không thể từ chối. Kết quả là về nhà ông bị lãnh đủ.
Ban đầu, trên tay chân ông phát ra các đám đỏ da hình tròn hay hình bầu dục. Chúng không liên kết với nhau nhưng cũng không sưng lên thành mụn nhọt. Tuy nhiên, chúng lại rất ngứa. Chỉ sau đấy ít lâu, trên các đám đỏ da lần lượt nổi các mụn nước. Các mụn này to nhỏ không giống nhau nhưng có điểm chung như nhau, đó là ngứa không chịu được và không có mủ bên trong. Chính vì ngứa không chịu được nên ông đã gãi thoả sức trong những ngày sau đó. Kết quả là chân tay ông, nhất là bàn chân bị xước hết da, chảy máu. Có nốt thì toác rộng, có nốt thì rớm máu nhưng có nốt đóng vảy. Chân tay ông đầy những chiến tích cũ. Sẹo chỗ này, sẹo chỗ kia. Đi khám, ông được chẩn đoán là bệnh eczema giai đoạn cấp tính.

Ngứa da là dấu hiệu điển hình
Thông thường, các bệnh ngoài da đều hay có biểu hiện ngứa. Nhưng trong bệnh eczema, dấu hiệu ngứa da là dấu hiệu điển hình nhất. Ngoài ra còn thấy đỏ da và mụn nước. Thường thì khi tiếp xúc với một dị nguyên hay là một yếu tố gây dị ứng nào đó, da vùng tiếp xúc sẽ bị đỏ lên rất điển hình. Đám đỏ da có đặc điểm là xuất hiện nhiều ở vùng bàn tay, bàn chân, rất thường xuyên xuất hiện ở mặt mu, mặt ngoài và mặt trên. Hầu như không bao giờ xuất hiện ở mặt bụng, mặt trong và mặt dưới. Đám đỏ da có nhiều kích thước khác nhau nhưng thường là các đám kích cỡ khoảng 1-2cm đường kính. Chúng có đặc điểm là ngứa, đỏ và tập trung nhiều ở trung tâm. Đỏ da có đặc điểm là bao giờ cũng là dấu hiệu đầu tiên và phải có của bệnh. Quan sát kỹ, thực chất đám đỏ da có các mụn nước nhỏ li ti lấm tấm như đầu đinh ghim nổi lên lờ mờ.
Chỉ sau đó một vài tiếng hay nửa ngày, trên các đám đỏ da nổi lên các nốt mụn nước ở chính tâm. Các nốt mụn có đặc điểm là to dần, màng da che phủ khá dày, không có mủ và càng ngày càng ngứa hơn. Khi gãi bật ra hoặc gãi cho chảy máu thì hết ngứa hoặc ngứa giảm. Nhưng đáng tiếc là giảm được ngứa thì da lại bị nhiễm khuẩn hoặc sẽ bị tổn thương sâu hơn để lại sẹo.
Trong cả hai giai đoạn là đỏ da và mụn nước, ngứa da bao giờ cũng đi kèm và làm cho người bệnh cảm thấy khó chịu. Nhất là một số người thuộc cơ địa dị ứng, nóng tính, da khô thì càng cảm thấy ngứa hơn. Ngứa liên tiếp, càng gãi càng ngứa, càng kỳ cọ càng kích thích.
 Đỏ da, mụn nước, mẩn ngứa là dấu hiệu đặc trưng của bệnh eczema.
Có thể điều trị khỏi không?
Eczema là bệnh có liên quan đến yếu tố dị ứng, thể tạng dị ứng. Vì thế mà cho đến nay, người ta chưa có một biện pháp nào được gọi là khả thi để dập tắt được hoàn toàn bệnh này.

Việc điều trị bao gồm 3 biện pháp cơ bản: uống thuốc chống ngứa, uống và bôi corticoid (ví dụ như kem flucina), dùng kháng sinh khi có nhiễm khuẩn và chiếu tia. Các tia được sử dụng ở đây là UVA, UVB và PUVA. Việc điều trị nói chung không khó, có thể tiến hành ở các bệnh viện đa khoa. Vấn đề quan trọng là sự giữ gìn của bệnh nhân.       

Sau mưa lũ, do điều kiện vệ sinh kém, môi trường, nguồn nước bị ô nhiễm và chứa đựng nhiều vi khuẩn gây bệnh, trong đó phải kể đến các vi khuẩn gây bệnh về da. Vậy những bệnh về da thường gặp trong mùa mưa lũ là gì? Có những biện pháp hiệu quả nào để điều trị và phòng bệnh? Bài viết của ThS. Đỗ Xuân Khoát sẽ giải đáp những thắc mắc này.


 Mùa mưa lũ, do điều kiện vệ sinh kém, môi trường, nguồn nước bị ô nhiễm và chứa đựng nhiều vi khuẩn gây bệnh. (Ảnh: Đ. Nam - nguồn internet)
Các bệnh nhiễm khuẩn da
Chốc lở: Do điều kiện vệ sinh kém, ăn uống thiếu chất, lao động dọn dẹp vệ sinh sau lũ dễ bị tổn thương da, tạo điều kiện cho vi khuẩn tấn công. Thương tổn là những mụn nước, mụn mủ trên da, tập trung ở vùng hở, tay chân. Khi dập vỡ tạo vết chợt loét nông, trên có vảy màu vàng hoặc màu nâu bẩn, xung quanh có viền vảy hoặc quầng đỏ. Khi bị cần phải lau rửa bằng cồn sát khuẩn hoặc betadin. Bôi thuốc sát khuẩn, xanh methylen, castellani. Khi thương tổn đã khô chuyển sang bôi thuốc mỡ kháng sinh như tetraxyclin, foban, bocidate, fucidin. Uống thuốc kháng sinh để bệnh nhanh khỏi và tránh những biến chứng nguy hiểm như viêm cầu thận.
Viêm nang lông: Do thiếu nước sạch, tắm gội vi khuẩn phát triển ở những nang lông như đầu, lông nách, lông sinh dục, râu, lông mày tạo thành những mụn mủ nhỏ ở nang lông rất ngứa, gãi nhiều chảy nước, dịch, ướt tóc, gọi là viêm nang lông chàm hóa rất khó chữa. Khi bị bệnh cũng phải sát khuẩn bằng cồn 70 độ, betadin, bôi mỡ kháng sinh và uống kháng sinh kháng tụ cầu như oxaxylin, bristopen, cloxylan, hạn chế gãi, chải đầu nhẹ nhàng, không làm tổn thương da đầu.
 Khám bệnh ngoài da cho bệnh nhân.
Bệnh viêm kẽ do vi khuẩn (Erythrasma):
hay gặp ở người béo phì, vị trí: hai bẹn, nách, cổ và nếp lằn vú ở phụ nữ. Cũng do thiếu nước sạch vệ sinh, mồ hôi ứ đọng, tạo điều kiện cho vi khuẩn phát triển, thương tổn là những đám da màu đỏ, bờ rõ, có vảy mỏng, hầu như không ngứa, trừ phi bị ở bẹn có cảm giác châm chích khó chịu. Căn nguyên do loại vi khuẩn có tên gọi Corynebacterium minutissimum. Chẩn đoán phân biệt với nấm da bằng cách chiếu đèn huỳnh quang thấy xuất hiện màu đỏ san hô, phân biệt với màu vàng huỳnh quang của nấm. Điều trị bằng bôi dung dịch eryfluid và uống erythromycin 250mg 4 lần 1 ngày.
Bệnh tiêu sừng lõm lòng bàn chân: (pitted keratolysis): còn gọi là bàn chân rỗ, bàn chân hà. Tổn thương là những vết lõm đường kính từ 1-3mm tập trung thành đám ở lòng bàn chân hay thấy ở gót trước và gót sau không đau không ngứa. Căn nguyên do vi khuẩn có tên gọi Micrococcus Sedentarius. Chẩn đoán không khó, chỉ cần dựa vào hình ảnh bàn chân rỗ. Điều trị ngâm rửa nước muối sau đó bôi mỡ kháng sinh erythromycin hoặc clindamycin và mỡ whitfeld xen kẽ, bệnh sẽ khỏi hoàn toàn.
Bệnh da do ký sinh trùng
Bệnh do ấu trùng xâm nhập vào da: Còn gọi là ấu trùng di trú trên da, bệnh ít thấy ở nước ta nhưng cũng không có nghĩa là không có mà do khả năng phát hiện bệnh còn hạn chế. Do trứng của giun sán tồn tại trong đất cát nở thành ấu trùng và xâm nhập vào da người, di trú trên da với tốc độ vài centimet một ngày. Chúng di chuyển ngay dưới lớp sừng tạo thành đường ngoằn ngoèo hơi nổi cao, rộng khoảng 2-3mm. Số lượng tổn thương phụ thuộc vào số lượng ấu trùng xâm nhập. Vị trí hay gặp: cẳng chân, mông, quanh hậu môn, tay. Triệu chứng cơ năng rất ngứa, ấu trùng tồn tại trên da trung bình từ 2-8 tuần. Hiếm khi trên 2 năm. Phòng bệnh: tránh tiếp xúc trực tiếp với đất cát chứa phân. Điều trị tại chỗ: bôi mỡ kháng ký sinh trùng albendazole. Uống thiabendazole 50mg/1kg cân nặng trong ngày, từ 2-5 ngày.
Ghẻ: Trong điều kiện vệ sinh kém, ghẻ cũng sinh sôi nảy nở và lây truyền rất nhanh. Do tiếp xúc trực tiếp giữa người bị ghẻ với người lành. Căn nguyên do ký sinh trùng có tên gọi Sarcoptes Scabies xâm nhập vào da. Thương tổn là những mụn nước, rãnh ghẻ. Vị trí hay gặp: kẽ các ngón tay, nếp lằn chỉ cổ tay, cạp quần, vùng bụng, đùi non, mông bẹn, sinh dục, nếp lằn vú, nách. Hiếm khi thấy ghẻ ở 1/3 trên lưng, mặt. Triệu chứng cơ năng: rất ngứa. Nếu không được phát hiện chữa kịp thời, ghẻ sẽ có biến chứng nhiễm trùng thành những mụn mủ eczema hóa rất khó chữa trị và lây lan ra cộng đồng rất nhanh. Điều trị: vệ sinh cá nhân và bôi thuốc chữa ghẻ, bôi một trong những loại thuốc sau: DEP, eurax, ascabiol. Điều trị cho cả nhà, những người có biểu hiện ngứa ghẻ. Tẩy uế quần áo ga gối bằng cách luộc hoặc phơi 3-4 nắng.
 Ghẻ.
Nước ăn chân

Thực chất là bị nhiễm nấm Candida và Blastomycet. Do chân tay ngâm trong nước nhiều, tế bào sừng bị chết và môi trường ẩm ướt làm cho nấm xâm nhập và phát triển. Thương tổn hay gặp ở các kẽ ngón chân 4, 5, kẽ ngón tay 3, 4. Lúc đầu là những đám da chết mục màu trắng, ngứa nhiều, gãi lột lớp da chết để lại nền da đỏ hồng ẩm ướt, đau rát, ngứa vẫn tiếp tục làm bệnh nhân gãi và rất đau. Nếu không được điều trị, vết chợt loét sâu và lan rộng, nhiễm trùng sưng đau, đi lại khó khăn. Bệnh cũng hay gặp ở người làm nghề quét dọn, công nhân vệ sinh, người nội trợ, giúp việc, thường xuyên phải tiếp xúc với nước, người có bệnh đái tháo đường cũng thường bị nhiễm loại nấm trên. Khi bị bệnh cần hạn chế lội nước, lau chân khô trước khi đi giày dép và điều quan trọng là phải dùng thuốc chống nấm như: castellani, calcream, nizoral, dezor; rửa chân tay bằng xà phòng diệt nấm SAStid hoặc nước quả chanh để tránh tái nhiễm. 

Thứ Tư, 25 tháng 9, 2013

Màu sắc của da phụ thuộc vào chủng tộc và di truyền, nó được quyết định bởi nhiều yếu tố. Sự khác nhau của từng vùng da trên một người được quyết định bởi melanin. Ở vùng da nào có nhiều melanin thì da vùng đó càng trở nên sẫm màu hoặc đen. Phần lớn tổn thương tăng sắc tố da có mối liên quan đến tăng sản hắc bào, với nhiều biến thể hình dạng và kích thước.

Các dạng rối loạn tăng sắc tố da
Rối loạn tăng sắc tố da bẩm sinh là những rối loạn xuất hiện khi ta chào đời. Đó có thể là những bớt đen, xanh đen. Bớt xanh là một dạng u lành tính thường xuất hiện lúc sơ sinh và phát triển rõ ở tuổi trưởng thành. Nguyên nhân bệnh sinh của các bớt nêu trên tuy chưa rõ, nhưng nhiều ý kiến cho rằng những tổn thương trên là biểu hiện của các hắc bào chưa di cư hoàn toàn từ mào thần kinh đến biểu bì trong phôi bào. Ở đây có cả sự tăng số lượng hắc bào lẫn hàm lượng melanin. Hầu hết các tổn thương bớt là sự tăng sản lành tính. Tăng sắc tố da khu trú còn có thể gặp dưới hình thái các loại nốt ruồi, tàn nhang. Các tăng sản ác tính được gọi là melanosoma như nốt ruồi ác tính, bớt xanh ác tính.


Rối loạn tăng sắc tố da mắc phải thường gặp nhất là rám da, da đồi mồi, cường sắc tố sau viêm, u sừng tăng tiết bã do lão hóa, nốt ruồi biểu bì, nốt ruồi son, dày sừng sắc tố. Đấy là những biểu hiện về tình trạng rối loạn tăng sắc tố da khu trú. Có nhiều nguyên nhân gây rối loạn tăng sắc tố da khu trú thứ phát (nội sinh và ngoại sinh). Đối với những rối loạn tăng sắc tố da nội sinh thì nguyên nhân chính gây nên đó là sự lão hóa tất yếu của da, sự thay đổi nội tiết trong quá trình mang thai hoặc uống thuốc ngừa thai, những căng thẳng về tâm lý kéo dài, tình trạng nhiễm độc với các hóa chất kéo dài, nhất là đối với với các loại hóa chất có chứa thủy ngân, chì. Quá trình quang hóa dưới tác động của ánh nắng mặt trời là nguyên nhân hàng đầu (80 - 90%) gây ra tổn thương tăng sắc tố da khu trú ngoại sinh. Chính bức xạ tử ngoại UVA, UVB không những gây rối loạn tăng sắc tố da khu trú mà chính nó đẩy nhanh quá trình lão hóa da. UVA, UVB cũng là tác nhân gây đột biến trong ung thư da. Rối loạn tăng sắc tố da khu trú còn do các nguyên nhân khác như: tăng sắc tố sau viêm, sau một bệnh về da, hậu quả sau các phản ứng kéo dài do dị ứng với hóa mỹ phẩm hay sử dụng hóa mỹ phẩm có corticoid kéo dài, nhiễm trùng thâm nhiễm để lại rám da, do liệu pháp sai lầm trong xử lý mụn trứng cá ở mặt. Một số khác rối loạn tăng sắc tố da là dấu hiệu bệnh lý trong bệnh gan, trong rối loạn một số nội tiết tố khác, bệnh Addison. Trên thực tế thì tia cực tím không những có trong ánh nắng mặt trời mà nó còn có cả trong ánh sáng từ các nguồn sáng mạnh của các đèn thắp sáng.

Làm sao khắc phục khiếm khuyết rối loạn sắc tố da?
Những tổn thương tăng sắc tố da khu trú dù là bẩm sinh hay thứ phát thì nó thường là lành tính, rất hiếm gặp thoái hóa ác tính. Trong hơn 25 năm qua, chúng tôi thực hiện loại bỏ tổn thương này bằng kỹ thuật laser, có 14 trường hợp nghi ác tính, chúng tôi cho làm sinh thiết xét nghiêm tế bào học, thì chỉ có 3 trường hợp là có tổn thương ác tính. Tuy là tổn thương lành tính, song các tổn thương sắc tố vùng mặt lại làm nhiều chị em buồn phiền bởi nó làm mất đi vẻ đẹp của làn da. Điều này đã thôi thúc chúng ta tìm kiếm nơi điều trị cũng như những liệu pháp trị liệu. Rất lấy làm tiếc, nhiều liệu pháp trị liệu truyền thống như: cắt bỏ, áp lạnh, bào mòn bằng cơ học, lột da bằng hóa chất đã không mang lại hiệu quả như mong đợi. Ngược lại, nó có khả năng tạo sẹo hay sự biến đổi sắc tố vĩnh viễn. Để loại bỏ các tổn thương tăng sắc tố da, thậm chí có những bạn đã để cho người (xăm dạo) xăm lên tổn thương một màu mực khác, gây ra rất nhiều khó khăn cho việc điều trị sau này.
Ở người có làn da khỏe mạnh(nghĩa là làn da đẹp và mịn màng), khi các tế bào và tổ chức của da hoạt động bình thường, không có các rối loạn do các tác nhân có hại gây nên, kể cả các tác nhân ngoại sinh cũng như các tác nhân nội sinh. Các tổn thương rám da, tàn nhang, da đồi mồi hoặc cả trong rối loạn sắc tố bẩm sinh… đều có mối liên quan rất chặt chẽ với các rối loạn về sắc tố melanin. Bình thường, melanin được sản sinh ra để duy trì màu sắc của da. Melanin được phân bố đồng đều ở biểu bì. Những hạt melanin được xem như tấm lá chắn bảo vệ cho DNA của cơ thể tránh khỏi sự đột biến dưới tác động của tia cực tím có trong ánh nắng mặt trời hoặc trong các đèn phát quang. Tấm lá chắn này sẽ bị phá vỡ khi chúng ta phơi nắng với ánh nắng cường độ lớn và kéo dài. Trong tình huống này, cơ thể sẽ xuất hiện phản ứng với tia cực tím bằng cách gia tăng sản sinh các melanin hoạt động và dễ dàng tạo nên rám da. Da cũng có thể rám đen do sự gia tăng của phản ứng nội tiết tố kích thích melanocyte, hoặc nội tiết tố hướng vỏ thượng thận, hoặc do tăng sắc tố sau những viêm nhiễm. Khi bạn đã có những tổn thương tăng sắc tố da bẩm sinh hay tăng sắc tố da thứ phát như đã nêu trên, bạn cũng đừng quá lo lắng. Hiện tại chúng ta đã có các máy Laser sử dụng hiệu ứng phân hủy quang nhiệt chọn lọc để tẩy trắng các tổn thương nêu trên. Lý thuyết này được Parrish và Anderson đề xuất vào năm 1981 đã là lời giải cho các tổn thương sắc tố da và u máu phẳng da và một vài kỹ thuật y khoa khác. Các máy laser này phải có bước sóng có đỉnh hấp thụ cực đại hoặc gần kề cực đại với melanin và có độ rộng xung cực nhỏ để không gây tổn thương nhiệt cho các thành phần khác của da. Quá trình điều trị có có thể phải mất nhiều liệu trình, mỗi liệu trình sau cách liệu trình trước được khuyến cáo từ 45 - 60 ngày.

Thứ Ba, 24 tháng 9, 2013

Trò chuyện, tâm sự, trao đổi… là nhu cầu tất yếu của mỗi người trong cuộc sống hằng ngày. Tuy nhiên, có những trường hợp vì khuôn mặt luôn có “màu đỏ” khiến họ mất tự tin trong giao tiếp và thu mình. Vậy đâu là nguyên nhân của hiện tượng đỏ mặt này? Do tâm lý hay do bệnh lý về trứng cá, mụn, giãn mạch hay một lý do khác?


 Tổn thương mụn trứng cá trên mặt.

Gần một năm nay, chị H. 42 tuổi ở Nam Định rất ngại tiếp xúc với những người xung quanh, mặc dù chị là giáo viên nhưng mỗi lần lên lớp lại khiến chị rất căng thẳng. Không phải bởi chuyên môn của chị kém hay không quản lý được học sinh mà chị mất tự tin do da mặt lúc nào cũng bừng đỏ, chỗ lồi chỗ lõm. Nghĩ mình bị mụn trứng cá nên chị đã áp dụng nhiều biện pháp khác nhau để chữa nhưng không có kết quả. Bên cạnh đó, nhiều người nói ở tuổi của chị thì ít khi mắc mụn trứng cá nên chị quyết định đến bệnh viện da liễu để khám. Tại đây, chị được biết mình không mắc bệnh trứng cá mà là một bệnh lý ngoài da có tên gọi là rosacea - là thuật ngữ dùng để chỉ tình trạng ửng đỏ, bừng đỏ của da. Bệnh có nhiều thể khác nhau từ nhẹ đến nặng với nhiều biểu hiện khác nhau và nếu không điều trị sớm, đúng thì có thể gây biến dạng khuôn mặt.
Các thể bệnh rosacea
Rosacea giãn mạch:
Đặc trưng bởi bừng đỏ, ban đỏ cố định vùng mặt trung tâm. Giãn mạch thường gặp, nhưng không phải là triệu chứng cần thiết cho chẩn đoán bệnh.
Rosacea sẩn, mụn mủ:
Đặc trưng bởi ban đỏ cố định vùng mặt trung tâm. Kèm theo có các sẩn xuất hiện thoáng qua, mụn mủ hoặc cả hai ở vị trí trung tâm của mặt. Có thể gặp cảm giác dát bỏng, nhức như kim châm.
Rosacea phì đại (phymatous rosacea):
Rosacea phì đại đặc trưng bởi các lỗ chân lông giãn to, da dày, bề mặt da trở nên không đều hoặc dạng nhiều múi, tạo thành nhiều rãnh, nổi cao và lõm xuống. Mức độ của thể rosacea phì đại cũng có thể nhẹ, trung bình hoặc nặng. Rosacea phì đại thường gặp ở vùng mũi (rhinophyma), nhưng có thể xuất hiện ở cằm (gnathophyma), trán (metophyma), mí mắt (plepharophyma) và tai (otophyma). Ở phụ nữ, rosacea thường không xuất hiện thể phì đại, nhưng có thể xuất hiện đặc trưng tăng tiết bã nhờn, tăng kích thước tuyến với biểu hiện của lỗ chân lông giãn rộng. Nang lông trở nên rộng rõ rệt ở vùng da phì đại và giãn mạch có thể gặp. Về giải phẫu bệnh, rosacea phì đại với đặc trưng tăng sợi chun, tăng xơ, thâm nhiễm các tế bào ở trung bì, quá sản tuyến bã, phì đại các ống tuyến bã.
Rosacea mắt:
Đặc trưng tổn thương ở mắt với biểu hiện mắt đỏ ngầu hoặc luôn ướt (sung huyết kết mạc), cảm giác vật lạ trong mắt, dát bỏng hoặc nhức như kim châm, khô mắt, ngứa, nhạy cảm ánh sáng, giảm thị lực, giãn mạch ở vùng kết mạc và bờ mi mắt hoặc dát đỏ vùng bờ mi hoặc quanh mắt. Viêm kết mạc, viêm bờ mi và xuất hiện bờ mi mắt không đều.
 Sử dụng tia laser điều trị bệnh về da.
Mụn trứng cá và rosacea có gì khác nhau?
Trứng cá và rosacea là hai trong các bệnh da hay gặp nhất. Chúng có những đặc điểm chung như tổn thương sẩn, mụn mủ ở mặt và chính lý do này dẫn đến sự chẩn đoán nhầm. Tuy nhiên, có một số biểu hiện lâm sàng khác biệt giữa 2 bệnh này. Bệnh nhân trứng cá thường có da bóng mỡ và có các tổn thương mụn. Trong thể nặng, bệnh nhân gặp tổn thương mụn bọc, nang và nốt có thể để sẹo. Tổn thương hay gặp ở vùng ngực, lưng và vùng trên cánh tay và mặt; Bệnh thường gặp ở tuổi thiếu niên.  Trong khi đó, rosacea thường gặp sau ở tuổi 30 và hay gặp nhất là từ 40 đến 50 tuổi. Tổn thương thường tập trung ở vùng giữa của mặt, mặc dù các vị trí khác như lưng, ngực và da đầu có thể gặp nhưng hiếm hơn. Tổn thương mụn hiếm gặp và ít khi để lại sẹo. Tuy nhiên thường kèm các biểu hiện khác như ban đỏ lan tỏa, bừng mặt và đỏ tía. Các tổn thương khác như giãn mạch, phì đại xơ, liên quan tổn thương vùng mặt có thể gặp.
Cách loại trừ rosecea
Đối với mỗi thể của rosecea đều có những biện pháp điều trị khác nhau. Tùy từng mức độ và giai đoạn của bệnh mà đáp ứng của những phương pháp này với tổn thương da cũng khác nhau. Riêng đối với thể rosecea phì đại thì các phương pháp điều trị đều gặp khó khăn, tuy nhiên có thể sử dụng vitamin A acid kéo dài, bào da bằng laser CO2 có kết quả tốt, đặc biệt thể khu trú ở mũi.

Các tế bào da có vai trò giống như vỏ bọc bên ngoài cơ thể nên nhạy cảm với mọi tác động. Tùy theo độ ẩm mà người ta chia da làm 3 loại: nhờn, da thường và da khô. Những người có làn da thường rất dễ chăm sóc, ít khi mắc bệnh, ngược lại người có làn da nhờn và da khô thường mắc rất nhiều phiền toái. Cần phải biết chăm sóc mới tránh được những nguy cơ mắc bệnh.


Bít tắc lỗ chân lông - khó chịu lớn của người da nhờn
Người da nhờn là những người trông lúc nào mặt cũng bóng nhờn, đi kèm với tình trạng da như quết mỡ là họ có mồ hôi dầu. Nếu lấy một miếng giấy mỏng chà nhẹ lên mặt sẽ làm chỗ giấy ấy trở nên trong suốt. Những người này có lợi thế vào mùa hanh khô, da họ hiếm khi bị nứt nẻ.
Người da nhờn rất dễ bị mụn trứng cá, nhẹ nhất là các mụn cám đầu đen quanh mũi. Vì da nhờn nên da họ rất dễ bắt bụi, làm cho các lỗ chân lông đã quanh năm tứ mùa bị bóng nhờn càng dễ bị bít tắc, sinh ra đủ các loại mụn, đó là trứng cá bọc, trứng cá đỏ, thậm chí bị viêm da dầu. Hiện tượng mụn mọc liên miên làm nhiều phụ nữ mặc cảm vì mất thẩm mỹ. Hơn nữa người da nhờn rất khó giữ được khuôn mặt trang điểm đẹp, vì chỉ sau ít phút trang điểm, da mặt họ đã bóng nhờn, vào ngày hè nóng bức rất dễ làm cho mặt họ trở nên “lem nhem” hơn.
Hiện nay để hạn chế mức độ nhờn của da, nhiều hãng mỹ phẩm đã cho ra đời các loại sữa tắm, sữa rửa mặt dành riêng cho da nhờn. Cần biết rằng da nhờn không sợ tính kiềm, do vậy họ có thể sử dụng những loại mỹ phẩm có tính kiềm cao. Điều quan trọng là họ phải luôn giữ sạch da mặt, nên lựa chọn những mỹ phẩm phù hợp với da. Những người da nhờn có mụn càng phải thận trọng khi sử dụng mỹ phẩm trang điểm và càng phải làm sạch da hàng ngày. Nên đeo khẩu trang khi đi ra khỏi nhà để tránh bụi, nên uống nhiều nước và ăn nhiều rau xanh, quả tươi, hạn chế ăn đồ ngọt, mỡ.

 Kết cấu của da.
Viêm da mạn tính do da khô
Khi lớp biểu bì thiếu nước làm cho da khô, ngứa, có khi nứt nẻ dẫn đến viêm da mạn tính. Bình thường lớp da ngoài cùng được các chất dịch từ các tuyến mồ hôi và từ các mô nằm phía dưới giữ cho ẩm mát. Những người da khô có thể do lớp da ngoài cùng không giữ được nước, có người vì tuyến mồ hôi hoạt động không tốt, người cao tuổi cũng dễ bị da khô do quá trình lão hoá. Tác động của độ ẩm không khí quá thấp, không khí khô lạnh, làm việc liên tục trong môi trường máy điều hoà, ánh nắng gay gắt…đều có tác dụng bất lợi cho da. Bên cạnh đó việc tắm rửa quá nhiều lần trong ngày và có thói quen dùng nước nóng càng làm cho da khô. Các chất tẩy rửa chén, bát, nước lau nhà, lau kính, bột giặt quần áo… cũng làm cho da khô ráp. Nếu như da nhờn làm cho khuôn mặt mất thẩm mỹ vì luôn bóng nhẫy thì da khô làm cho người ta dễ già hơn tuổi, và cũng khó khăn không kém khi trang điểm.
Để cải thiện tình trạng da khô, về dinh dưỡng phải ăn nhiều rau quả, uống nhiều nước, ngủ đủ 8h/ngày, tránh dùng các chất kích thích như rượu bia, thuốc lá, cà phê. Khi tắm không nên dùng nước quá nóng, kể cả trời lạnh và dùng khăn tắm mềm, kỳ cọ nhẹ nhàng và không nên tắm quá lâu. Trong phòng làm việc hay nhà ở cần nâng cao độ ẩm, độ ẩm trên 60% là tạm đủ cho da, nếu thấp hơn cần phải điều chỉnh. Nên sử dụng găng tay khi phải rửa bát, lau nhà, giặt quần áo. Đối với phụ nữ khi chọn mỹ phẩm trang điểm cần chọn những sản phẩm có chứa dầu thay vì những sản phẩm dựa vào nước.
Các liệu pháp matxa có ý nghĩa quan trọng đối với da khô, đó là nên thoa da mặt, da bàn tay, da cổ từ 5- 10 phút trước khi đi ngủ và sau khi ngủ dậy để làm tăng sự đàn hồi của da, giúp các mạch máu dưới da lưu thông tốt hơn, làm cho da được cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng của cơ thể.

Có điều cần lưu ý rằng ở vùng khí hậu nhiệt đới không nên lạm dụng quá mức các loại kem làm ẩm da, vì rất có thể đó là môi trường tốt cho vi khuẩn bám vào gây viêm nhiễm da.    

Thứ Bảy, 21 tháng 9, 2013

Mụn hạt cơm hay mụn cóc xuất hiện ở bất kỳ nơi nào trên da hoặc niêm mạc, có đường kính nhỏ hơn 0,5cm. Hạt cơm thường không đáp ứng với bất kỳ dạng điều trị nào và thường tự khỏi nhưng bệnh hay tái phát ở dạng các tổn thương mới.

Nhận biết mụn hạt cơm
Tuy bạn sắp có mụn hạt cơm nhưng thường không có triệu chứng gì, cho đến lúc nó mọc lên bạn mới biết. Nếu là mụn hạt cơm ở gan bàn chân, thì khi ép lên nó, bạn thấy có cảm giác mềm. Còn mụn ở vùng hậu môn sinh dục thường gây ngứa. Rất ít khi hạt cơm gây ra cản trở cơ học dù ở các vị trí như lỗ mũi, ống tai, niệu đạo. Các hạt cơm rất khác nhau về hình dạng, kích thước và hình thức. Nếu nhìn thì đa số các hạt cơm dẹt, có thể thấy rõ dưới ánh sáng xiên. Những hạt cơm dưới móng thường khô, nứt nẻ và tăng sừng, có thể giống như chỗ xước măng rô. Hạt cơm ở gan bàn chân giống như cục chai sần. Ở phụ nữ, soi âm đạo và dùng acid acetic 3% bôi các thương tổn ở cổ tử cung có thể phát hiện các hạt cơm dẹt.
Khi nhận dạng mụn hạt cơm, cần phân biệt với các trường hợp như sau: ở người cao tuổi, các hạt cơm lớn cần phải sinh thiết để loại trừ khả năng ung thư tế bào gai. Đôi khi những tổn thương giống hạt cơm ở các vùng da tiếp xúc ánh mặt trời, thực tế lại là các ung thư tế bào gai và dày sừng quá sản do ánh nắng. Một số thương tổn hạt cơm hoa liễu có thể là do giang mai thứ phát. Những tổn thương u mềm lây có thể bị nhầm lẫn là hạt cơm, đặc biệt khi chúng rất lớn ở những người bị suy giảm miễn dịch. Tổn thương dày sừng da bã nhờn cũng có thể bị nhầm với hạt cơm. Đối với bệnh nhân AIDS, các tổn thương giống hạt cơm cũng có thể do virut Varicella-zoster gây ra.

 Hạt cơm ở mu bàn tay.
Chữa trị và phòng bệnh hạt cơm dễ hay khó?
Cho đến nay, vẫn chưa có một phương pháp điều trị nào có thể đảm bảo khỏi bệnh hay tránh tái phát, nên việc điều trị chỉ nhằm mục đích tạo ra những khoảng thời gian “không có hạt cơm” càng lâu càng tốt mà không tạo sẹo. Ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch, mục đích của điều trị khiêm tốn hơn, là chỉ kiểm soát được kích thước và số lượng của mụn hạt cơm.
Các phương pháp loại bỏ hạt cơm gồm: 
Dùng nitrogen lỏng áp lạnh trong 5-15 giây với hai chu kỳ lạnh - bớt lạnh, có thể điều trị 2 tuần một lần (phải do thầy thuốc chuyên khoa thực hiện để tránh quá mức có thể gây sẹo). Mặt  khác nếu làm không đúng cách đối với tổn thương dọc theo cạnh ngón tay có thể phá hủy thần kinh và gây chứng dị cảm. Nitrogen lỏng có thể gây mất sắc tố đối với những người da màu. Phương pháp này có hiệu quả với các mụn cơm khô ở dương vật và mụn cơm thành dải ở mặt và trên cơ thể. Nên dùng nitrogen lỏng điều trị các tổn thương ở mu bàn chân, trái lại không nên dùng điều trị các tổn thương ở lòng bàn chân và các vùng chịu lực khác vì có thể dẫn tới đau đớn và làm rộp da tạm thời.
Các sản phẩm của acid salicylic cũng có thể dùng để điều trị các mụn cơm thông thường hay các mụn cơm ở lòng bàn chân:  các mụn cơm ở lòng bàn chân được điều trị bằng cách bôi acid salicylic 40% rồi băng lại sau khi cắt bớt mụn cơm, để băng trong 5 ngày, tổn thương giảm đi lại làm lần khác như vậy. Tuy cách này mất nhiều thời gian (hằng tháng) để trừ hẳn mụn cơm, nhưng nó an toàn và hiệu quả, hầu như không có tác dụng phụ.
Đối với mụn cơm ở vùng hậu môn sinh dục, tốt nhất là bôi nhựa podophyllum 25% (podophyllin). Nhưng bệnh nhân có thai không được điều trị theo cách này. Sau 4 tuần, bệnh nhân hết mụn cơm, nhưng có thể bị tái phát sau 6 tuần, nên phải điều trị nhiều đợt mới khỏi. Ngoài ra người ta còn dùng các phương pháp điều trị khác như: phẫu thuật cắt bỏ mụn cơm, dùng laser CO2 điều trị mụn cơm tái phát...

Phòng bệnh cần tránh tiếp xúc với hạt cơm. Nếu bạn bị hạt cơm dẹt thì không nên cào xước hay gây tổn thương vùng bị bệnh. Các hạt cơm ở vùng hậu môn sinh dục có thể lây nhiễm qua quan hệ tình dục, vì vậy bạn nên dùng bao cao su để phòng lây nhiễm bệnh này và các bệnh lây truyền qua đường tình dục khác.

Kẽm oxyd là một trong những thuốc rất thông dụng dùng để chữa một số các bệnh da và nhiễm khuẩn da như: hỗ trợ điều trị chàm (eczema), vết bỏng nông (diện tích bỏng nhỏ, không rộng), cháy nắng, hồng ban do bị chiếu nắng, bảo vệ da do nắng, da khô, trứng cá, côn trùng châm đốt, ban do tã lót, vảy da đầu, tăng tiết nhờn, chốc, nấm da, vẩy nến, loét giãn tĩnh mạch, ngứa.  Ngoài ra, kẽm oxyd còn được dùng điều trị vùng da bị kích ứng do lỗ dò tiêu hóa, hậu môn nhân tạo, mở thông bàng quang.


 Khám da cho bệnh nhân.Ảnh: PV
Kẽm oxyd thường được phối hợp với các hoạt chất khác trong các chế phẩm như: titan oxyd, bismuth oxyd, glycerol, bôm (nhựa thơm) Peru, ichthammol... được dùng dưới các dạng kem dùng ngoài, hồ bôi, thuốc mỡ. Nói chung thuốc dùng tương đối an toàn. Tuy nhiên thuốc có thể gây nên chàm tiếp xúc hoặc gây bội nhiễm (do các tá dược như nhựa thơm, lanolin có trong thuốc gây nên). Người bệnh có thể bị dị ứng với một trong các thành phần của chế phẩm. Nếu gặp các triệu chứng này nên ngừng thuốc. Vì vậy, đối với các trường hợp mẫn cảm với một hoặc nhiều thành phần của thuốc, hoặc những trường hợp tổn thương da bị nhiễm khuẩn không được dùng kẽm oxyd.
Trước khi bôi thuốc và trong quá trình điều trị phải đảm bảo vô khuẩn vùng được bôi thuốc vì có thể bội nhiễm ở các vùng bị thuốc che phủ.
Cách dùng
- Đối với tổn thương trên da: Sau khi rửa sạch vết thương, bôi đều một lớp thuốc mỏng lên vùng da bị tổn thương, 1 - 2 lần một ngày. Có thể dùng một miếng gạc vô khuẩn che lên.
- Chàm, nhất là chàm bị lichen hóa: Bôi một lớp dày chế phẩm hồ nước có chứa ichthammol, kẽm oxyd, glycerol lên vùng tổn thương, 2 - 3 lần một ngày.
 Hình ảnh tổn thương da do bệnh vẩy nến và viêm nang lông.    Ảnh: TL
- Ðau ngứa hậu môn, nhất là trong những đợt trĩ:
Bôi thuốc mỡ hoặc đặt đạn trực tràng có kẽm oxyd, bismuth oxyd, resorcin, sulphon, caraghenat vào hậu môn, ngày 2 - 3 lần, sau mỗi lần đi ngoài. Không nên dùng dài ngày. Nếu sau 7 - 10 ngày dùng không thấy đỡ thì phải thăm khám hậu môn trực tràng để tìm nguyên nhân gây chảy máu và cuối cùng phát hiện bệnh ác tính.

- Tổn thương do suy tĩnh mạch mạn tính, băng sau phẫu thuật giãn tĩnh mạch: Bôi phủ vết thương bằng chế phẩm có 20% kẽm oxyd trong vaselin.

Da là cơ quan ngoài cùng cơ thể. Đây là một cơ quan có mặt trên hầu khắp cơ thể, từ đầu cho tới chân. Có thể nói rằng đây là hệ thống phòng thủ mạnh nhất và hữu hiệu nhất của cơ thể.
Khi hệ thống này bị tấn công và tổn thương cũng đồng nghĩa với sức khỏe của ta có vấn đề.

 
Các bệnh nhiễm khuẩn da thường gặp
Các bệnh nhiễm khuẩn da thường gặp trong mùa hè là nhiễm trùng da do tụ cầu khuẩn, liên cầu khuẩn và do nấm da.
Tụ cầu khuẩn gây viêm nang lông. Bệnh này có đặc điểm xuất hiện những mụn nhỏ lấm tấm, ngay tại vị trí chân lông. Các mụn này có đặc điểm là ban đầu chỉ là một nốt nhỏ sau đó to hơn, tụ mủ ở chính giữa. Sợi lông mọc xiên từ dưới lên chính giữa nốt mụn như thể mụn mủ bao quanh gốc lông. Nốt mụn khá ngứa và ấn thì hơi đau. Tùy thuộc vào nhiễm khuẩn da nông (tức là ở ngay gần bề mặt cơ thể) hay sâu (tận sâu dưới da) mà nốt mụn to hay nhỏ, lâu khỏi hay nhanh khỏi. Nhưng thông thường nếu không có biến chứng gì thì không có hiện tượng rụng lông xảy ra. Bệnh thường gặp ở mặt, da đầu, cẳng chân, cẳng tay, đùi, vùng sinh dục. Khi mọc ở vùng râu cằm thì được gọi là đinh râu.
Liên cầu khuẩn gây ra các bệnh chốc loét, chốc lây trên da. Vào mùa hè, da ẩm ướt những bệnh này càng có cơ hội phát triển. Nó thường xuất hiện ở những vùng da mất vệ sinh, những cơ thể yếu, có sức đề kháng kém, trẻ em, người bị đái tháo đường... Bệnh thường biểu hiện bằng những phỏng nước nhỏ sau đó hoá mủ. Những dịch của những nốt này có thể lan ra vùng xung quanh và gây ra chốc liên tiếp. Tùy thuộc vào mức độ tổn thương mà đó là bệnh chốc lây (nếu là tổn thương nông, hay chốc loét nếu là tổn thương sâu). Những tổn thương sâu thì thường để lại sẹo.
Với trẻ em, vào mùa hè, tại những ngấn sâu, nếp gấp sâu hoặc những người béo phì, da vùng này rất ẩm ướt sẽ có hiện tượng viêm da tại vùng nếp gấp được gọi là hăm kẽ. Biểu hiện của bệnh là da đỏ, rát, quầng lên tại những nếp gấp sâu. Hăm kẽ có một đặc điểm là không xuất hiện lây lan trên vị trí cơ thể khác. Do đó các bậc cha mẹ nên chú ý khi chăm sóc da trẻ sơ sinh mùa hè.
Mùa hè còn là mùa thuận lợi cho bệnh nấm da phát triển, tên thường gọi khác là hắc lào. Nấm hắc lào chính là những dòng nấm ưa nóng ẩm, rất dễ sinh trưởng ở môi trường ướt át như bẹn, mông, nách, ngấn bụng... Do đó bệnh chỉ xuất hiện ở những vùng này trước khi lan sang vùng da khác. Đặc điểm dễ nhận thấy nhất của bệnh đó: dạng tổn thương kiểu khép kín như hình tròn, hình tứ giác, ngũ giác, đa giác và chỉ có tổn thương ở chu vi mà da vùng chính giữa lại hoàn toàn bình thường. Tổn thương là các mụn nước nhỏ li ti, vô cùng ngứa. Sau khi gãi thấy rất xót và lan càng mạnh. Đám hắc lào cứ thế lan ra theo nhiều cách, rộng ra hoặc lan sang vùng da bên cạnh, hình thành nên một đám hắc lào mới

Nguy cơ không chỉ ở ngoài da
Nhiễm khuẩn huyết: Nguy cơ này ít nhưng thường trực nếu như các tổn thương ngoài da là rộng và dày đặc. Thường xuất hiện ở những vùng nhiều mạch máu như mép, miệng, mặt, cằm. Khi những nốt nhiễm khuẩn xuất hiện dưới dạng một “đinh râu” thì sẽ xuất hiện một hàng rào bảo vệ sinh học là các tế bào miễn dịch bao xung quanh và các dịch ngoại bào đầy kháng thể. Nếu nặn hút quá sớm, ngay từ khi quá trình viêm mới bắt đầu và cấp diễn, các hoạt động miễn dịch đang được huy động thì chúng ta dễ dàng phá vỡ hàng rào sinh học này. Vi khuẩn lợi dụng “vết nứt” trên, xâm nhập ồ ạt vào máu mà cơ thể không thể ngăn trở kịp gây ra nhiễm khuẩn huyết. Nhiễm khuẩn huyết là một biến cố nặng, nó có thể biến một nhiễm khuẩn ngoài da thành một nhiễm khuẩn thứ phát ở gan, tim, não và có thể gây tử vong, đặc biệt ở người già và trẻ em.
Nhiễm khuẩn các cơ quan khác: Da có thể khởi động tạo ra các viêm nhiễm ở màng tim, màng khớp, có thể gây ra viêm xương tủy xương. Việc gây ra những căn bệnh này là do vi khuẩn hoặc phức hợp kháng thể - kháng nguyên của vi khuẩn có thể xâm nhập vào cơ thể theo đường máu hoặc bạch huyết gây ra viêm tại các cơ quan có mô liên kết giống nhau như màng tim, màng khớp. Ở những đối tượng mà sức miễn dịch kém thì các vi khuẩn có thể theo đường máu tới định cư ở đầu các xương dài và gây ra bệnh viêm xương tủy xương. Các dạng tổn thương này càng hay gặp khi một nhiễm khuẩn da dai dẳng, ăn sâu và có thể lan tới cốt mạc xương.
Có thể là một nguyên cớ cho các bệnh liên quan đến miễn dịch như bệnh eczema hay bệnh lupus ban đỏ.
Xử trí thế nào?
Đứng trước một nhiễm khuẩn da, hai việc cần quan tâm ở đây là ngăn không cho nhiễm khuẩn lan rộng và “ăn” sâu. Để thực hiện hiệu quả cần thực hiện theo các biện pháp dưới đây.
Một là, không được cào cấu, gãi, nặn, chích hay bất kỳ một can thiệp cơ học nào vào vị trí tổn thương quá sớm. Việc cần làm đầu tiên đó là rửa nhẹ nhàng và vệ sinh sạch sẽ. Sau đó lau khô và bôi thuốc sát khuẩn lên bề mặt tổn thương như xanh metylen, hay cồn iốt hữu cơ.
Hai là, việc sử dụng thuốc kháng sinh cần được chỉ định chặt chẽ của bác sĩ.

Chú ý: Các thuốc bôi trên vết nhiễm khuẩn. Khi một vết thương đang sưng, đỏ, rắn thì chỉ được bôi các thuốc dạng nước như dung dịch cồn iốt. Khi các vết thương nhiễm khuẩn lâu liền đang chảy nước cũng chỉ được thấm dung dịch sát khuẩn lên bông gạc và che đậy vào tổn thương mà tuyệt đối không được bôi thuốc mỡ. Chỉ được bôi thuốc dạng kem và mỡ khi tổn thương đã khô và đóng vảy; khi tổn thương nhiễm trùng trên da dai dẳng hàng tuần hàng tháng mà không liền thì nhất thiết phải đi khám và được điều trị.
Design by Hao Tran | Blogger Theme by Sức khỏe sinh sản -