Thứ Tư, 2 tháng 10, 2013

Có lẽ giờ đây, khi nhắc tới bệnh ghẻ, nhiều người, nhất là những người sống ở thành phố sẽ gạt phăng vì nghĩ rằng đây là bệnh chỉ gặp ở những nơi có điều kiện dinh dưỡng và vệ sinh kém. Tuy nhiên, thực tế lại cho thấy rằng, ngay cả những thành phố lớn, bệnh ghẻ vẫn tồn tại và nhiều khi bị chẩn đoán nhầm. Do đó mà có những gia đình bị ghẻ cả nhà tro

ng suốt 2 năm trời vẫn chưa được chẩn đoán và điều trị đúng.
Cái ghẻ xâm nhập qua da gây bệnh
Căn nguyên gây bệnh ghẻ là một loại ký sinh trùng có tên sarcoptes scabiei, có nơi còn gọi là con mạt ngứa (itch mite). Con cái có kích thước từ 0.3-0.5mm. Cái ghẻ xâm nhập vào đường biểu bì da, đào hầm và đẻ trứng. Chúng đẻ từ 2-3 trứng/ngày và đẻ liên tục trong 4-6 tuần liền. Trứng nở thành ấu trùng và phát triển thành con trưởng thành chỉ trong vòng 3-4 ngày. Lây bệnh ghẻ là do tiếp xúc trực tiếp với người bị ghẻ, nằm chung giường, mặc chung quần áo, dùng chung khăn tắm. Cái ghẻ có thể sống ngoài cơ thể được 2-3 ngày, điều này rất có ý nghĩa trong việc tư vấn điều trị.

 Tổn thương do ghẻ có thể nhầm lẫn với eczema.
Ngứa ghẻ có thể nhầm lẫn với eczema
Người bị nhiễm ký sinh trùng ghẻ lần đầu tiên trong vòng 2 tuần đầu hoàn toàn chưa có biểu hiện ngứa do mới bị ghẻ xâm nhập nên chưa có sự phản ứng lại (hay là sự nhạy cảm). Việc chẩn đoán ghẻ rất dễ, ai đó từng bị ghẻ đều có thể nhận ra được, nhưng đôi khi cũng bị nhầm lẫn tại các phòng khám chuyên khoa vì ghẻ lâu ngày tạo thành eczema hóa hoặc bội nhiễm hoặc ghẻ vảy. Dựa vào triệu chứng bệnh ngứa nhiều về đêm, ngứa tăng khi trời nóng, khi lao động, chơi thể thao. Mụn nước ở vị trí đặc hiệu, kẽ ngón tay, lằn chỉ cổ tay, nếp gấp bàn tay, vùng thắt lưng, cạp quần, bẹn,  đùi, sinh dục, nách, núm vú ở phụ nữ. Điều đặc biệt là ghẻ không thấy ở mặt, đầu và 1/3 trên lưng. Đối với trẻ em dưới 2 tuổi, ghẻ có thể bị toàn thân. Có thể dùng kính lúp soi bắt được cái ghẻ nằm ở cuối đường hầm trong da.
Chữa ghẻ bằng cả đông y và tây y
Đông y thường dùng lá cây ba gạc, lá đào đun nước tắm, nhựa cây máu chó bôi tại chỗ. Tắm nước muối, tắm biển… Tây y có thể dùng một trong những loại thuốc sau: D.E.P.(dietyl phtalat); benzyl benzoat (ascabiol, scabitox, zylate); eurax (crotamintan); permethrin cream 5% (elimite); lindane (gamma–benzen hexachlorid, kwell).
Ngoài ra, cần đặc biệt chú ý, khi điều trị ghẻ, phải điều trị cho cả những người sống chung trong gia đình hoặc trong cùng đơn vị, ký túc xá sinh viên, tẩy uế quần áo, ga gối. Trong mùa hè, phơi quần, áo, ga, gối 3-4 nắng. Quần áo giặt để 1 tuần sau mặc lại. Do bệnh ghẻ có thể xuất hiện ở bất kỳ địa phương nào, kể cả nông thôn hay thành thị nên nếu nghi ngờ mắc bệnh, không nên chủ quan để bệnh kéo dài dai dẳng.

Thứ Ba, 1 tháng 10, 2013

Nước ta nằm trong khu vực nhiệt đới, lại là nước nông nghiệp, người dân phải tiếp xúc nhiều với bùn đất, ẩm ướt kéo dài... Tất cả những yếu tố đó là điều kiện thuận lợi cho các loại vi sinh vật như vi nấm, vi khuẩn... phát triển để gây bệnh, đặc biệt là  một số bệnh ở da.

Đặc biệt, thời tiết đang chuyển sang nắng nóng, nên việc nhận biết điều trị là việc làm hết sức cần thiết, trong đó phải kể đến các bệnh như nấm da, viêm kẽ, viêm nang lông, chốc, viêm nang lông, rôm sảy….
Nấm da: một trong những vấn đề y khoa phổ biến ở nước ta, bệnh biểu hiện dưới rất nhiều dạng khác nhau, các thể bệnh thường xuất hiện ở nhiều nơi như da, móng, niêm mạc và tóc, nấm da thường gặp nhất là hắc lào, lang ben, và nấm kẽ chân.

Hắc lào: hay còn gọi là lác có tên khoa học là Dermatophyte do 3 loại nấm Trichophyton, Epidermophyton và Michosporum gây nên, sự khác biệt giữa 3 loại nấm này chỉ phân biệt được ở phòng thí nghiệm mà thôi. Vị trí thường gặp nhất là ở bẹn (nấm bẹn), ở thân (nấm thân) và ở chân người ta gọi là nấm chân. Các loại nấm này đều có chung triệu chứng là ngứa sau đó xuất hiện mảng đỏ gọi là mảng hồng ban, có hình tròn nên dân gian gọi là lác đồng tiền, đôi khi hình bầu dục, có bờ viền rõ rệt, trên bờ viền có mụn nước nhỏ, mảng đỏ lớn dần, ở vùng trung tâm có xu hướng lành, da sậm màu hơn và tróc vảy nhẹ. Bệnh ngứa nhiều, nhất là về đêm, bệnh không điều trị kịp thời sẽ lây lan ra nhiều vị trí khác. Về điều trị, thường được dùng thuốc thoa tại chỗ như Canesten dạng kem, thoa 2 - 3 lần/ngày, thoa trong 2 - 4 tuần hoặc Nizoral dạng kem thoa 1 lần /ngày, thoa trong 3 - 4 tuần. Kết hợp với thuốc uống như Itraconazol với biệt dược là Canditral hay Sporal, uống với liều 100mg (1 viên) x 2 viên, uống một lần trong ngày, uống trong 7 ngày, hoặc 1 viên uống trong 15 ngày. Về phòng bệnh, luôn giữ da khô sạch, tránh gãi gây trầy xước trên da, không nên mặc quần áo ẩm ướt, quá chật, quần áo, khăn tắm phải giặt, phơi nắng, ủi kỹ ở mặt trong, khi phát hiện bệnh phải được điều trị sớm, đúng thuốc, đủ thời gian và điều trị cùng lúc cho cả người trong gia đình và tập thể, để dập tắt nguồn lây, không dùng quần áo, khăn lau chung  với người bệnh. Lang ben: một bệnh do vi nấm gây nên, có tên khoa học là Pityrosporum Orbiculaire mà trước kia người ta gọi là Malassezia furfur. Bệnh có triệu chứng cơ bản là dát đổi màu thường khởi đầu ở nang lông, từ từ lan ra thành mảng, giới hạn rõ, có thể hình hình đa cung hay ngoằn ngoèo, do biểu hiện chủ yếu là đổi màu của da nên còn gọi là nấm đổi màu (Tinea Versicolor). Sự thay đổi màu sắc này là do Pityrosporum Obiculaire tiết ra acid Azelaic, làm ức chế quá trình tổng hợp hắc tố melanin từ Tyrosin, dẫn đến đổi màu ở da; có màu trắng, hồng hoặc nâu đen, tùy thuộc vào vị trí và độ dày của da. Màu trắng hoặc hồng thường gặp ở vùng phơi bày ánh sáng như  ở mặt, ngực, chi trên… Màu đen hay nâu thường phân bố vùng da non hoặc vùng kín ở nách - đùi. Ngoài dát đổi màu còn có vảy mịn, nhẹ, cạo tróc như vỏ bào nên còn gọi dấu hiệu mụn bào, người bị lang ben thường không ngứa hoặc ngứa ít và có  cảm giác như châm chít khi ra mồ hôi.
Lang ben rất dễ điều trị nhưng hay tái phát, có thể do điều trị không đúng thuốc, không đủ liều hoặc thoa thuốc còn sót trong những vùng nhiễm nấm nhưng chưa đổi màu, hoặc không chú ý nguồn tiếp tục lây như quần áo đã nhiễm nấm trước đó hay người thân trong nhà, cũng cần nên nhớ rằng thuốc Griseofulvin ngày nay hầu như không có tác dụng với lang ben. Thuốc uống  dùng Itraconazol 100mg x 2 viên uống 1 lần /ngày, uống trong 7 ngày, hoặc Ketoconazol (Nizoral) 200mg x 1 viên/uống trong 10 ngày, uống trong lúc ăn. Thuốc thoa thường Canesten dạng kem thoa 2 lần/ngày thoa trong 4 tuần, hoặc Lamisil 1% dạng kem thoa 2 lần /ngày thoa trong 2 tuần.Về phòng bệnh, tắm Selsun  mỗi tuần 1 lần, mỗi tháng uống 2 viên Ketoconazol 200mg, uống trong 6 tháng, không dùng quần áo, khăn lau chung với người bệnh.
Bệnh viêm kẽ ngón chân: do nấm thường do vi nấm hạt men Candida gây nên, do môi trường ở kẽ ngón chân ẩm thấp làm vi nấm phát sinh, bệnh phát sinh do mang vớ kín ẩm suốt ngày, dẫn đến viêm kẽ do da ẩm thấp, mắc mưa càng làm bệnh nặng thêm. Candida là vi nấm hạt men sống ký sinh ở da người, không gây bệnh, gặp điều kiện thuận tiện như môi trường ẩm ướt, nấm sẽ phát triển và gây bệnh, nhất là ở vị trí kẽ ngón chân thứ tư và năm. Bệnh có biểu hiện  da trở nên đỏ hồng, rướm máu, quanh rìa da bị mủn  có màu trắng, ít ngứa, có cảm giác hơi đau rát, nếu tổn thương kéo dài gây ngứa và dịch tiết có mùi hôi rất khó chịu.  Về phòng bệnh,  cần đảm bảo vệ sinh chân, không đi giày- vớ trong thời gian dài nhất là khi giày hay vớ ẩm ướt, rửa chân sạch bằng xà phòng và lau khô chân sau khi tiếp xúc với nước bẩn, nước cống rãnh, dùng thuốc khử có iod như Betadine, nước muối, các loại bột diệt nấm ở bàn chân và kẽ ngón chân, luôn giữ cho kẽ ngón chân khô ráo, tránh đi mưa.
Bệnh ngoài da thường không nặng nhưng gây khó chịu cho người bệnh, bệnh thường diễn tiến nhanh trong môi trường ẩm ướt và bội nhiễm nặng do thiếu vệ sinh; cho nên cần giữ cơ thể sạch sẽ, khô, tránh ẩm ướt, mặc quần áo rộng, thoáng, tránh tạo môi trường ẩm khiến cho vi khuẩn, vi nấm phát triển là việc làm cần thiết để phòng các bệnh như phần trên khi vào mùa nắng nóng.
Chốc: bệnh nhiễm trùng da, người lớn thường ít gặp hơn trẻ em,  triệu chứng của bệnh  là mụn nước hay bóng nước có quầng viêm đỏ xung quanh sau thành mụn mủ, vỡ ra và khô đi, đóng mày. Phòng bệnh bằng cách tăng cường sức đề kháng bằng chế độ dinh dưỡng hợp lý và giữ vệ sinh cơ thể, tránh mặc đồ ẩm ướt nhất là với trẻ em.
Viêm nang lông: bình thường trên da của chúng ta có nhiều lông, mọc lên từ các nang lông nằm sâu  dưới  da, các nang lông có nhiệm vụ sinh ra  lông, tuyến mồ hôi trong nang lông tiết mồ hôi và chất bã giúp bài tiết và điều hòa thân nhiệt. Khi nắng nóng, chất bã được bài tiết quá nhiều kết hợp với nhiễm trùng sẽ gây viêm nang lông. Về triệu chứng, viêm nang lông là một bệnh khá đa dạng và có nhiều nguyên nhân gây ra, thường gặp nhất là do vi trùng, tuổi phổ biến nhất ở lứa tuổi thanh niên, thường biểu hiện bằng tổn thương da với nốt sẩn nhỏ nhô lên từ các nang lông, lúc đầu có màu hồng, về sau mãn tính thường có màu hơi thâm đen, mỗi nang lông là một sẩn.
Bệnh thường không khỏi tự nhiên, nếu được điều trị bệnh sẽ dần dần khỏi, các sẩn biến mất, da bớt đỏ và sạch trở lại nhưng bệnh cũng rất dễ tái phát. Về điều trị, tại chỗ thường dùng thuốc thoa như Fucidine 2% hay Dalacin T, thoa ngày 2 lần sáng và chiều. Thuốc uống có thể dùng một trong các thuốc kháng sinh chống nhiễm khuẩn như: Clindamycine, Minoxycycline… Nếu người bệnh kèm theo ngứa thì dùng thuốc chống ngứa như: Loratadine, Chlorpheniramine, Cetirizine… Ngày nay người ta còn điều trị viêm nang lông bằng công nghệ ánh sáng 3G nhằm hấp thụ melanin để giảm thâm đen, công nghệ này là sự kết hợp giữa sóng IPL và RF, có khả năng hấp thụ hắc tố trên da, giúp da sáng hơn, khắc phục tình trạng vết thâm và sẹo .
Rôm sảy: bệnh rất thường gặp vào mùa hè, với thời tiết nắng nóng, do sự tăng tiết và ứ đọng mồ hôi, tạo nên phản ứng viêm nhiễm da, bệnh thường gặp ở trẻ em, với biểu hiện là những mụn nước nhỏ li ti, khu trú chủ yếu ở trán, cổ, ngực, lưng, các mụn nước vài ngày sau vỡ ra, để lại các vảy nhỏ trên da; rôm sảy xuất hiện nhiều ở các trẻ em không được tắm rửa hằng ngày, hoặc quấn tã lót quá nhiều, hoặc ở những trẻ mới sinh được người nhà có thói quen cho nằm than, hay nằm lửa, bệnh rất dễ gây một số biến chứng như viêm da nhiễm trùng, mưng mủ. Để khắc phục tình trạng này, cần tạo môi trường thoáng mát, sạch sẽ, khô ráo, tắm rửa đều đặn và hợp lý, có thể tắm với dung dịch Lactacyd BB, hoặc bôi các chế phẩm làm dịu da, trong trường hợp ngứa nhiều, có thể sử dụng thuốc kháng dị ứng thích hợp, nếu có viêm nhiễm, mưng mủ, cần đưa bệnh nhân đến khám bác sĩ chuyên khoa.

Chấy rận và ghẻ là những ký sinh trùng gây bệnh ngoài da, gây ngứa. Bệnh có thể xuất hiện thành ổ dịch ở các đơn vị tập thể, nhà ở chật hẹp, thiếu vệ sinh…

Do ngứa nên người bệnh phải gãi sẽ gây nhiễm khuẩn thứ phát. Nếu bệnh kéo dài, ngứa gãi gây mất ngủ dẫn đến suy nh­ược thần kinh…

Benzyl benzoate là một thuốc được dùng để bôi ngoài, có hiệu quả trong điều trị ghẻ, diệt chấy rận. Đối với dạng nhũ dịch benzyl benzoat 25% có thể bôi lên tất cả các vùng da (trừ da mặt). Hay nói cách khác là không bôi thuốc lên da mặt.

 Cấu trúc phân tử B benzyl benzoat.
Sau khi tắm bằng nước nóng, lau khô vùng da cần bôi thuốc. Sau khi bôi thuốc để nguyên trong 24 giờ, sau đó bôi tiếp một lần nữa mà không cần tắm và để thuốc tác dụng tổng cộng là 48 giờ rồi mới tắm rửa sạch thuốc. Tất cả cái ghẻ sẽ bị tiêu diệt. Do benzyl benzoat là một chất kích ứng da mạnh nên không được dùng lại thuốc này thêm mặc dù sau đó chứng ngứa có thể còn tồn tại đến 3 tuần.
Khi dùng cho trẻ nhỏ và trẻ em nên hòa loãng thuốc để tránh kích ứng da (thường hòa loãng 60 hoặc 90 ml thuốc benzyl benzoat 25% thành 120 hoặc 180 ml bằng nước sạch), lắc đều trước khi dùng.
Tránh để thuốc tiếp xúc với mắt và các màng nhầy. Khi lỡ uống, benzyl benzoat có thể gây kích thích hệ thần kinh trung ương và co giật. Chú ý không bôi trên một diện tích da quá rộng. Bảo quản thuốc ở nhiệt độ không quá 40oC trong bao bì sạch, kín, tránh ánh sáng và để xa tầm tay trẻ em.
Thuốc có thể gây kích ứng da và phản ứng quá mẫn ở một số người bệnh (đặc biệt đối với những cơ địa dễ dị ứng) hoặc gây viêm da thể bọng nước... Cần ngừng bôi thuốc khi có các phản ứng dị ứng.
Có thể dùng các thuốc ghẻ khác thay thế benzyl benzoat để tránh kích ứng da. Những thuốc được dùng phổ biến nhất là lindan (gamma benzen hexaclorid), mỡ permethrin 5% và mỡ lưu huỳnh (thường dùng loại lưu huỳnh kết tủa 5 - 9% trong vaselin). Tuy nhiên, không nên dùng lindan cho trẻ nhỏ. Không nên dùng cho người mang thai và thận trọng khi dùng cho người bệnh có vùng da bị tổn thương rộng, vì làm tăng độ hấp thu qua da và tất nhiên dẫn đến nguy cơ ngộ độc ở trẻ em (rối loạn thần kinh trung ương, co giật, suy hô hấp). 

Thứ Hai, 30 tháng 9, 2013

Viêm da dị ứng là biểu hiện của dị ứng ở da, có yếu tố di truyền và đáp ứng quá mức đối với các kháng nguyên trong môi trường. Bệnh hay gặp ở người có bệnh sử cá nhân hay tiền sử gia đình về các chứng bệnh dị ứng có liên quan như hen suyễn hoặc do tiếp xúc với các chất, bụi, phấn hoa, cánh bướm, thực phẩm lạ... là tác nhân gây dị ứng. Vì nhiều nguyên nhân gây bệnh nên việc điều trị vô cùng phức tạp. Ca bệnh được đề cập trong bài viết là một trường hợp điển hình.

Một trường hợp dị ứng đặc biệt
Bệnh nhân Nguyễn P.S. nam 34 tuổi ở Hà Nội. Bệnh nhân có tiền sử viêm mũi dị ứng, hen phế quản, viêm da dị ứng, trầm cảm nhiều năm nay. Đã khám và điều trị nhiều nơi… tuy nhiên bệnh không kiểm soát được. Vừa qua, bệnh nhân nhập viện trong tình trạng ngứa nhiều, tổn thương nứt da, chảy dịch kèm bong vảy toàn thân, nhiều nhất vùng da đầu, mặt, cổ, lưng, tay, chân (ảnh). Kèm theo bệnh nhân có cảm giác dị ứng với nhiều thuốc, thức ăn, quần áo và chăn màn... Sau khi khám và làm các xét nghiệm kết quả chẩn đoán: viêm mũi dị ứng; hen phế quản; viêm da dị ứng nặng trên bệnh nhân trầm cảm... Tại Trung tâm Dị ứng - MDLS Bệnh viện Bạch Mai, bệnh nhân đã được điều trị corticosteroid toàn thân, kháng histamin, protopic 0.1%. Physiogel lotion, ICS + LABA, antileukotriene phối hợp với liệu pháp tâm lý. Sau 2 tuần điều trị, bệnh nhân được ra viện.

 Bệnh nhân S. trước khi điều trị.
Bệnh khá phổ biến
Viêm da dị ứng khá phổ biến, đặc biệt ở các nước khí hậu khô, các nước có nền công nghiệp đang phát triển. Những năm gần đây, viêm da dị ứng ngày càng tăng tại Việt Nam. Viêm da dị ứng có thể gặp ở mọi lứa tuổi, nhưng chủ yếu khởi phát ở trẻ em, 45% trẻ em khởi phát bệnh trước 6 tháng tuổi, 60% trước 1 tuổi và 85% trước 5 tuổi, chỉ có khoảng 16,8% khởi phát muộn ở tuổi trưởng thành. Không có sự khác biệt nhiều về giới và chủng tộc, tuy nhiên khác nhau ở các khu vực địa lý do sự khác nhau về điều kiện môi trường.
Nguyên nhân gây bệnh
Viêm da dị ứng là một bệnh phức tạp do nhiều nguyên nhân gây ra. Trong đó vai trò của gen tương tác với yếu tố môi trường là cơ chế bệnh sinh chính của bệnh. Các dị nguyên không khí như bọ nhà, lông chó, lông mèo, nấm mốc và một số dị nguyên thức ăn được nghiên cứu là những dị nguyên đóng vai trò chủ yếu trong các đợt cấp của bệnh, đôi khi có bội nhiễm vi khuẩn chủ yếu là chủng tụ cầu vàng.
Tiêu chuẩn chẩn đoán
Viêm da dị ứng là bệnh viêm da mạn tính khó chẩn đoán do tính đa dạng về mặt lâm sàng. Wiliams và cộng sự đã đưa ra các tiêu chuẩn chẩn đoán dựa trên đặc điểm lâm sàng chính của bệnh và được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới như: Ngứa kết hợp với từ 3 tiêu chuẩn sau trở lên; Tiền sử có các tổn thương da ở mặt trước khuỷu tay, kheo chân, mặt trước mắt cá chân hoặc vùng quanh cổ, mắt; Tiền sử hen phế quản, sốt mùa; Tiền sử khô da; Khởi phát bệnh sớm trước 2 tuổi; Khám thấy tổn thương da điển hình vùng má, trán và mặt ngoài tay chân ở trẻ dưới 4 tuổi.
 Và kết quả sau 2 tuần điều trị.
Phương pháp điều trị viêm da dị ứng?
Điều trị viêm da dị ứng còn nhiều khó khăn và cần phối hợp điều trị bằng nhiều phương pháp.
Hội Dị ứng miễn dịch châu Âu và Hội Dị ứng - Hen phế quản Mỹ vừa đưa ra hướng dẫn điều trị theo các bước điều trị từ bước 1 đến bước 4 tùy theo mức độ nặng của bệnh. Thuốc sử dụng điều trị viêm da dị ứng bao gồm: thuốc bôi corticosteroid, ức chế calcineurin, doxepin, kem kháng sinh khi có bằng chứng bội nhiễm, sử dụng tia UV với liều điều trị, thuốc uống kháng histamin, kháng sinh nếu tình trạng bội nhiễm nặng không kiểm soát được bằng kháng sinh tại chỗ. Thuốc ức chế miễn dịch đường uống như corticosteroid, cyclosporine A, azathioprine, điều trị giải mẫn cảm đặc hiệu với dị nguyên khi có các bệnh phối hợp như hen phế quản, viêm mũi dị ứng. Trường hợp bệnh nhân nặng không kiểm soát được bằng một loại thuốc đơn độc, bệnh nhân sẽ được chỉ định liệu pháp điều trị kết hợp nhiều thuốc.

Ngoài ra, tư vấn bệnh nhân và gia đình nhằm nâng cao hiểu biết của bệnh nhân trong việc kiểm soát các yếu tố làm nặng bệnh như vệ sinh môi trường sống, xây dựng chế độ ăn giàu dưỡng chất, không hút thuốc lá, rượu bia, không mặc quần áo có chất liệu tổng hợp, len, nên sử dụng sữa tắm trung tính, nước tắm có độ nóng vừa phải để duy trì lớp bảo vệ sinh lý có tính acid của da. Chăm sóc da bằng kem dưỡng ẩm, hydrat hóa, cũng như để bảo vệ da khỏi sự tác động của các dị nguyên. 

Bệnh nhân Nguyễn Thị G., 87 tuổi được chẩn đoán ung thư da vùng má trái, kết quả giải phẫu bệnh là ung thư biểu mô vảy sừng hóa. Bệnh nhân tự điều trị bằng thuốc nam, thuốc lá nên khi đến khám tại Trung tâm Ung bướu Bệnh viện 19/8 tổn thương vùng má trái sùi loét lan rộng với kích thước 8 x 7cm. Tổn thương lan lên sát bờ dưới mắt trái, bờ ngoài cánh mũi trái làm biến dạng khuôn mặt và làm bệnh nhân vô cùng mặc cảm.
 


 Ảnh minh họa (nguồn Internet)
Bệnh nhân đã được hội chẩn và quyết định phẫu thuật phối hợp giữa chuyên ngành ung thư và phẫu thuật tạo hình: cắt u và ghép da bằng phương pháp thiết kế vạt da IMRE xoay che phủ ổ khuyết. Ca mổ đã thành công với vạt da được liền tốt và sức khỏe bệnh nhân được hồi phục sau điều trị hậu phẫu, mặc dù bệnh nhân già yếu, có bệnh phối hợp. Kết quả đã phục hồi được thẩm mỹ tối đa cho khuôn mặt bệnh nhân. Đây là một thành công quan trọng trong phẫu thuật tạo hình lấp hổng tổn khuyết lớn trên bệnh nhân ung thư, hướng mới trong điều trị ung thư ở Trung tâm Ung bướu Bệnh viện 19/8, Bộ Công an.

Thứ Bảy, 28 tháng 9, 2013

Nhiều ngày nay, thời tiết nước ta rét đậm, rét hại kéo dài, nhiệt độ xuống thấp là điều kiện cho một số bệnh ngoài da phát triển mạnh. Điển hình là bệnh cước do lạnh, mày đay, nứt nẻ da, ngứa… Mặc dù đa số các bệnh lý da do lạnh thường không trực tiếp nguy hiểm đến tính mạng nhưng lại gây ra những phiền toái trong cuộc sống người bệnh.


 Cần giữ ấm để phòng bệnh về da do lạnh.
Một số bệnh ngoài da do lạnh
Cước: là một loại chấn thương do lạnh gây kích thích co mạch ngoại vi làm cho tổ chức vùng đó bị thiếu ôxy nuôi dưỡng dẫn đến hoại tử tế bào, tạo thành những đám da phù nề màu đỏ sẫm đôi khi có mụn nước, xuất huyết. Người bệnh cảm thấy đau đớn vùng bị tổn thương và ngứa ngáy khi ủ ấm làm ảnh hưởng nhiều đến lao động và sinh hoạt. Vị trí thương tổn hay gặp ở các ngón chân, bàn chân, ngón tay, bàn tay, tai và mũi. Cước được chia làm hai thể: cước cấp tính và mạn tính. Đề phòng cước cần giữ ấm chân tay bằng cách đi găng tay, bít tất len và sưởi ấm ngay sau khi nhiễm lạnh. Bỏ thuốc lá vì chất nicotine gây co thắt mạch ngoại vi làm bệnh nặng thêm. Nhất là người cao tuổi và trẻ em dưới 10 tuổi phải được chăm sóc đặc biệt tránh bị nhiễm lạnh dễ viêm phổi, tắc mạch chi gây hoại tử tại chỗ.
 Mày đay vùng cổ, mặt.
Mày đay do lạnh: Thường xảy ra sau khi tiếp xúc với không khí lạnh thì bị nổi các sẩn, mảng màu đỏ, sưng phù, ngứa dữ dội ở một hay nhiều vùng (thường gặp nhất là những vùng da hở như mặt, tay, chân); nặng hơn thì sẩn và mảng phát khắp toàn thân, kích thước có thể nhỏ hoặc cũng có thể lớn như cái đĩa. Mày đay kéo dài vài phút đến vài giờ khi ngừng tiếp xúc với lạnh và có thể tái phát nhiều lần trong ngày. Một số trường hợp nặng sẽ xuất hiện mày đay lan tỏa, hạ huyết áp, sốc, bất tỉnh, thậm chí tử vong.
Ngứa da do lạnh: Hiện tượng ngứa khi trời lạnh là do cơ thể quá mẫn cảm lại bị giãn mạch khiến chất huyết tương của máu tràn qua thành mạch, xâm nhập các mô gây ngứa và sưng nề. Ngoài ra, chức năng điều tiết của tuyến mồ hôi, tiết bã bị hạn chế cũng làm cho da bị khô. Bình thường da tiết ra những chất hữu cơ như acid organic cùng với mồ hôi. Các axít hữu cơ có tác dụng giữ cho da nhờn, đàn hồi, chống lại sự xâm nhập của các loại vi khuẩn, nấm, ký sinh trùng, bụi bẩn... Biểu hiện của tình trạng ngứa do thời tiết lạnh có thể từ lâm râm đến dữ dội, nhất là vào ban đêm khi ngủ. Ngứa do thời tiết chỉ điều trị khỏi từng đợt, không thể chữa khỏi vĩnh viễn. Đối với một số bệnh nhân, khi thời tiết ấm lên, cơn ngứa cũng chấm dứt. Biện pháp hạn chế ngứa do lạnh hiệu quả là vệ sinh da sạch sẽ nhưng khi tắm chỉ nên dùng nước đủ ấm. Khi bị ngứa dữ dội kéo dài nên đến khám ở chuyên khoa da liễu để được chỉ định dùng thuốc vì nếu gãi nhiều sẽ gây xước da, nhiễm khuẩn và viêm da.
Viêm da cơ địa: thường tiến triển mạn tính, có thể khỏi một thời gian, sau đó lại tái phát. Bệnh có tính chất gia đình. Thời tiết càng lạnh và khô hanh thì da người bệnh càng trở nên dày, khô, mốc trắng và ngứa. Vùng da dễ bị khô dày và tổn thương do gãi nhiều thường là nách, kẽ vú, bẹn, khuỷu tay, khoeo chân. Có người không chịu được ngứa đã gãi nhiều nên vùng da này càng dày hơn trông như hằn cổ trâu. Việc điều trị không dễ bởi các tổn thương bị nhiễm khuẩn, dùng thuốc hay có tác dụng phụ. Người bệnh tuyệt đối không gãi, không cạo, không chà xát. Nên rửa nhẹ nhàng bằng nước lã bình thường ngày 2 lần, không dùng xà phòng.
Nứt môi và nứt gót chân: Khi bị nứt môi, đầu tiên là môi bị khô, bong vảy, từ từ dẫn đến nứt, gây đau, chảy máu. Nếu không được điều trị đúng, môi sẽ bị chàm hóa, nhiễm khuẩn, gây ăn uống khó khăn và mất thẩm mỹ. Nứt gót chân với biểu hiện da dày lên, có những đường nứt dọc xung quanh gót chân hoặc ngón chân. Lâu ngày, những vết nứt dài ra và sâu hơn, gây đau đớn, chảy máu, đi lại khó khăn và dễ nhiễm khuẩn nếu không giữ sạch sẽ. Hiện tượng này cũng có thể gặp ở phần da tay nhưng ít hơn ở chân

Đó là kinh nghiệm chữa bệnh của bác Bàn Văn H. (xã Xuân Sơn, huyện Tân Sơn, Phú Thọ)- một người mắc vẩy nến toàn thân từ nhiều năm nay.

Bác H. nhớ lại: “Tôi bị vẩy nến từ tháng 9/2003, lúc đầu là ngứa ngáy, bong vẩy ở trên đầu, sau đó lan ra khắp người và toàn thân, ăn kém, mất ngủ. Tôi đi cắt thuốc nam uống nhưng bệnh vẫn không khỏi. Cơ thể tôi nóng hừng hực, nhiệt cứ phát từ bên trong mà không thoát ra được nên lớp vẩy càng đóng nhiều. Ở vùng này có khoảng chục người mắc bệnh như tôi, họ cũng đi chữa đông chữa tây mà không khỏi nên đành sống chung với bệnh. Kể từ khi mắc bệnh, tôi không dám mặc quần áo cộc đi ra ngoài. Trời nóng cũng phải mặc áo dài vì cởi ra thì bản thân nhìn vào còn thấy sợ chứ chưa nói đến người khác. Khi đi tắm cũng không dám ra sân tắm mà phải vào nhà tắm. Đi đâu lâu lâu mà ngứa quá thì cũng ngại vì không gãi thì khó chịu, gãi thì người ta nhìn vào lại sợ…”.

Bác H. cho biết: “Nhà có con dâu, con gái, các con đều bận nên thường nhờ tôi trông cháu. Các cháu cứ quấn ông mà ông thì bệnh tật, chỉ sợ lỡ chẳng may lây bệnh cho các cháu thì khổ”. Vậy là lúc bế cháu, dù nóng đến đâu bác cũng không dám cởi bớt quần áo ra cho mát. Vẩy nến phát ra ngày càng nhiều, bác phải thu xếp tiền nong đi chữa ở bệnh viện tới 4 lần rất tốn kém: “Mỗi lần khám, bác sĩ kê cho thuốc uống, thuốc bôi nhưng bệnh chỉ đỡ mà không khỏi”- bác nói. Thầy thuốc đều giải thích cho bác H. rằng, vẩy nến không lây truyền cho người khác, và bác phải chấp nhận chung sống với bệnh suốt đời.


 Ảnh minh hoạ
Biết bệnh của mình khó chữa, bác không ngừng tìm kiếm thêm các phương pháp điều trị. Một lần theo dõi chương trình sức khỏe trên tivi, bác thấy giới thiệu sản phẩm Kim Miễn Khang được dùng cho người mắc vẩy nến như bác, nên quyết định sử dụng: “Tôi bắt đầu dùng từ tháng 2/2011 đều đặn mỗi ngày 8 viên chia 2 lần, mỗi lần 4 viên. Tôi uống vào thì thấy bệnh từ từ thuyên giảm. Trong người không còn nóng nữa, da bớt vẩy, quan trọng là đêm ngủ ngon giấc, không còn phải vùng dậy tắm rửa vì ngứa ngáy”. Mở một chiếc bao tải ở góc nhà, bác H. nói: “Đây là toàn bộ số vỏ hộp Kim Miễn Khang tôi đã dùng, nhờ kiên trì uống sản phẩm nên các nốt vẩy trên da đã hết. Sau gần 10 năm chịu đựng bệnh tật, đến nay tôi đã có thể cởi trần ra sân tập thể dục. Những người quen biết tôi nhiều năm đều thấy lạ, họ nói tôi đã trở về với con người bình thường rồi”.
Ngoài việc kiên trì dùng Kim Miễn Khang, bác H.còn kết hợp cả thuốc bôi của Viện Da liễu TƯ bởi bác nghĩ, Kim Miễn Khang giúp chữa bệnh từ bên trong, thuốc bôi chữa từ bên ngoài sẽ chóng khỏi hơn. Vậy là chỉ sau chưa đầy 9 tháng, từ một người mắc vẩy nến toàn thân, nay các nốt vẩy đã rời xa bác. Da dẻ nhẵn nhụi, hồng hào, sức khỏe trở lại với bác như thời còn thanh niên.

Thứ Sáu, 27 tháng 9, 2013

Bệnh eczema được biết đến với một cái tên khác thông thường hơn là bệnh chàm. Việc điều trị nói chung không khó, có thể tiến hành ở các bệnh viện đa khoa. Vấn đề quan trọng là sự giữ gìn của bệnh nhân để không tái phát.

Nổi eczema do đi… ăn cỗ
Ông Nguyễn Văn Khương, 60 tuổi (Hưng Yên) là một nạn nhân điển hình của bệnh này. Ông cho biết mình bị nổi nốt đầy chân tay sau một lần... ăn cỗ. Thường thì ông không mấy khi uống rượu. Nhưng hôm đó, vì nhiều lý do mà ông không thể từ chối. Kết quả là về nhà ông bị lãnh đủ.
Ban đầu, trên tay chân ông phát ra các đám đỏ da hình tròn hay hình bầu dục. Chúng không liên kết với nhau nhưng cũng không sưng lên thành mụn nhọt. Tuy nhiên, chúng lại rất ngứa. Chỉ sau đấy ít lâu, trên các đám đỏ da lần lượt nổi các mụn nước. Các mụn này to nhỏ không giống nhau nhưng có điểm chung như nhau, đó là ngứa không chịu được và không có mủ bên trong. Chính vì ngứa không chịu được nên ông đã gãi thoả sức trong những ngày sau đó. Kết quả là chân tay ông, nhất là bàn chân bị xước hết da, chảy máu. Có nốt thì toác rộng, có nốt thì rớm máu nhưng có nốt đóng vảy. Chân tay ông đầy những chiến tích cũ. Sẹo chỗ này, sẹo chỗ kia. Đi khám, ông được chẩn đoán là bệnh eczema giai đoạn cấp tính.

Ngứa da là dấu hiệu điển hình
Thông thường, các bệnh ngoài da đều hay có biểu hiện ngứa. Nhưng trong bệnh eczema, dấu hiệu ngứa da là dấu hiệu điển hình nhất. Ngoài ra còn thấy đỏ da và mụn nước. Thường thì khi tiếp xúc với một dị nguyên hay là một yếu tố gây dị ứng nào đó, da vùng tiếp xúc sẽ bị đỏ lên rất điển hình. Đám đỏ da có đặc điểm là xuất hiện nhiều ở vùng bàn tay, bàn chân, rất thường xuyên xuất hiện ở mặt mu, mặt ngoài và mặt trên. Hầu như không bao giờ xuất hiện ở mặt bụng, mặt trong và mặt dưới. Đám đỏ da có nhiều kích thước khác nhau nhưng thường là các đám kích cỡ khoảng 1-2cm đường kính. Chúng có đặc điểm là ngứa, đỏ và tập trung nhiều ở trung tâm. Đỏ da có đặc điểm là bao giờ cũng là dấu hiệu đầu tiên và phải có của bệnh. Quan sát kỹ, thực chất đám đỏ da có các mụn nước nhỏ li ti lấm tấm như đầu đinh ghim nổi lên lờ mờ.
Chỉ sau đó một vài tiếng hay nửa ngày, trên các đám đỏ da nổi lên các nốt mụn nước ở chính tâm. Các nốt mụn có đặc điểm là to dần, màng da che phủ khá dày, không có mủ và càng ngày càng ngứa hơn. Khi gãi bật ra hoặc gãi cho chảy máu thì hết ngứa hoặc ngứa giảm. Nhưng đáng tiếc là giảm được ngứa thì da lại bị nhiễm khuẩn hoặc sẽ bị tổn thương sâu hơn để lại sẹo.
Trong cả hai giai đoạn là đỏ da và mụn nước, ngứa da bao giờ cũng đi kèm và làm cho người bệnh cảm thấy khó chịu. Nhất là một số người thuộc cơ địa dị ứng, nóng tính, da khô thì càng cảm thấy ngứa hơn. Ngứa liên tiếp, càng gãi càng ngứa, càng kỳ cọ càng kích thích.
 Đỏ da, mụn nước, mẩn ngứa là dấu hiệu đặc trưng của bệnh eczema.
Có thể điều trị khỏi không?
Eczema là bệnh có liên quan đến yếu tố dị ứng, thể tạng dị ứng. Vì thế mà cho đến nay, người ta chưa có một biện pháp nào được gọi là khả thi để dập tắt được hoàn toàn bệnh này.

Việc điều trị bao gồm 3 biện pháp cơ bản: uống thuốc chống ngứa, uống và bôi corticoid (ví dụ như kem flucina), dùng kháng sinh khi có nhiễm khuẩn và chiếu tia. Các tia được sử dụng ở đây là UVA, UVB và PUVA. Việc điều trị nói chung không khó, có thể tiến hành ở các bệnh viện đa khoa. Vấn đề quan trọng là sự giữ gìn của bệnh nhân.       

Sau mưa lũ, do điều kiện vệ sinh kém, môi trường, nguồn nước bị ô nhiễm và chứa đựng nhiều vi khuẩn gây bệnh, trong đó phải kể đến các vi khuẩn gây bệnh về da. Vậy những bệnh về da thường gặp trong mùa mưa lũ là gì? Có những biện pháp hiệu quả nào để điều trị và phòng bệnh? Bài viết của ThS. Đỗ Xuân Khoát sẽ giải đáp những thắc mắc này.


 Mùa mưa lũ, do điều kiện vệ sinh kém, môi trường, nguồn nước bị ô nhiễm và chứa đựng nhiều vi khuẩn gây bệnh. (Ảnh: Đ. Nam - nguồn internet)
Các bệnh nhiễm khuẩn da
Chốc lở: Do điều kiện vệ sinh kém, ăn uống thiếu chất, lao động dọn dẹp vệ sinh sau lũ dễ bị tổn thương da, tạo điều kiện cho vi khuẩn tấn công. Thương tổn là những mụn nước, mụn mủ trên da, tập trung ở vùng hở, tay chân. Khi dập vỡ tạo vết chợt loét nông, trên có vảy màu vàng hoặc màu nâu bẩn, xung quanh có viền vảy hoặc quầng đỏ. Khi bị cần phải lau rửa bằng cồn sát khuẩn hoặc betadin. Bôi thuốc sát khuẩn, xanh methylen, castellani. Khi thương tổn đã khô chuyển sang bôi thuốc mỡ kháng sinh như tetraxyclin, foban, bocidate, fucidin. Uống thuốc kháng sinh để bệnh nhanh khỏi và tránh những biến chứng nguy hiểm như viêm cầu thận.
Viêm nang lông: Do thiếu nước sạch, tắm gội vi khuẩn phát triển ở những nang lông như đầu, lông nách, lông sinh dục, râu, lông mày tạo thành những mụn mủ nhỏ ở nang lông rất ngứa, gãi nhiều chảy nước, dịch, ướt tóc, gọi là viêm nang lông chàm hóa rất khó chữa. Khi bị bệnh cũng phải sát khuẩn bằng cồn 70 độ, betadin, bôi mỡ kháng sinh và uống kháng sinh kháng tụ cầu như oxaxylin, bristopen, cloxylan, hạn chế gãi, chải đầu nhẹ nhàng, không làm tổn thương da đầu.
 Khám bệnh ngoài da cho bệnh nhân.
Bệnh viêm kẽ do vi khuẩn (Erythrasma):
hay gặp ở người béo phì, vị trí: hai bẹn, nách, cổ và nếp lằn vú ở phụ nữ. Cũng do thiếu nước sạch vệ sinh, mồ hôi ứ đọng, tạo điều kiện cho vi khuẩn phát triển, thương tổn là những đám da màu đỏ, bờ rõ, có vảy mỏng, hầu như không ngứa, trừ phi bị ở bẹn có cảm giác châm chích khó chịu. Căn nguyên do loại vi khuẩn có tên gọi Corynebacterium minutissimum. Chẩn đoán phân biệt với nấm da bằng cách chiếu đèn huỳnh quang thấy xuất hiện màu đỏ san hô, phân biệt với màu vàng huỳnh quang của nấm. Điều trị bằng bôi dung dịch eryfluid và uống erythromycin 250mg 4 lần 1 ngày.
Bệnh tiêu sừng lõm lòng bàn chân: (pitted keratolysis): còn gọi là bàn chân rỗ, bàn chân hà. Tổn thương là những vết lõm đường kính từ 1-3mm tập trung thành đám ở lòng bàn chân hay thấy ở gót trước và gót sau không đau không ngứa. Căn nguyên do vi khuẩn có tên gọi Micrococcus Sedentarius. Chẩn đoán không khó, chỉ cần dựa vào hình ảnh bàn chân rỗ. Điều trị ngâm rửa nước muối sau đó bôi mỡ kháng sinh erythromycin hoặc clindamycin và mỡ whitfeld xen kẽ, bệnh sẽ khỏi hoàn toàn.
Bệnh da do ký sinh trùng
Bệnh do ấu trùng xâm nhập vào da: Còn gọi là ấu trùng di trú trên da, bệnh ít thấy ở nước ta nhưng cũng không có nghĩa là không có mà do khả năng phát hiện bệnh còn hạn chế. Do trứng của giun sán tồn tại trong đất cát nở thành ấu trùng và xâm nhập vào da người, di trú trên da với tốc độ vài centimet một ngày. Chúng di chuyển ngay dưới lớp sừng tạo thành đường ngoằn ngoèo hơi nổi cao, rộng khoảng 2-3mm. Số lượng tổn thương phụ thuộc vào số lượng ấu trùng xâm nhập. Vị trí hay gặp: cẳng chân, mông, quanh hậu môn, tay. Triệu chứng cơ năng rất ngứa, ấu trùng tồn tại trên da trung bình từ 2-8 tuần. Hiếm khi trên 2 năm. Phòng bệnh: tránh tiếp xúc trực tiếp với đất cát chứa phân. Điều trị tại chỗ: bôi mỡ kháng ký sinh trùng albendazole. Uống thiabendazole 50mg/1kg cân nặng trong ngày, từ 2-5 ngày.
Ghẻ: Trong điều kiện vệ sinh kém, ghẻ cũng sinh sôi nảy nở và lây truyền rất nhanh. Do tiếp xúc trực tiếp giữa người bị ghẻ với người lành. Căn nguyên do ký sinh trùng có tên gọi Sarcoptes Scabies xâm nhập vào da. Thương tổn là những mụn nước, rãnh ghẻ. Vị trí hay gặp: kẽ các ngón tay, nếp lằn chỉ cổ tay, cạp quần, vùng bụng, đùi non, mông bẹn, sinh dục, nếp lằn vú, nách. Hiếm khi thấy ghẻ ở 1/3 trên lưng, mặt. Triệu chứng cơ năng: rất ngứa. Nếu không được phát hiện chữa kịp thời, ghẻ sẽ có biến chứng nhiễm trùng thành những mụn mủ eczema hóa rất khó chữa trị và lây lan ra cộng đồng rất nhanh. Điều trị: vệ sinh cá nhân và bôi thuốc chữa ghẻ, bôi một trong những loại thuốc sau: DEP, eurax, ascabiol. Điều trị cho cả nhà, những người có biểu hiện ngứa ghẻ. Tẩy uế quần áo ga gối bằng cách luộc hoặc phơi 3-4 nắng.
 Ghẻ.
Nước ăn chân

Thực chất là bị nhiễm nấm Candida và Blastomycet. Do chân tay ngâm trong nước nhiều, tế bào sừng bị chết và môi trường ẩm ướt làm cho nấm xâm nhập và phát triển. Thương tổn hay gặp ở các kẽ ngón chân 4, 5, kẽ ngón tay 3, 4. Lúc đầu là những đám da chết mục màu trắng, ngứa nhiều, gãi lột lớp da chết để lại nền da đỏ hồng ẩm ướt, đau rát, ngứa vẫn tiếp tục làm bệnh nhân gãi và rất đau. Nếu không được điều trị, vết chợt loét sâu và lan rộng, nhiễm trùng sưng đau, đi lại khó khăn. Bệnh cũng hay gặp ở người làm nghề quét dọn, công nhân vệ sinh, người nội trợ, giúp việc, thường xuyên phải tiếp xúc với nước, người có bệnh đái tháo đường cũng thường bị nhiễm loại nấm trên. Khi bị bệnh cần hạn chế lội nước, lau chân khô trước khi đi giày dép và điều quan trọng là phải dùng thuốc chống nấm như: castellani, calcream, nizoral, dezor; rửa chân tay bằng xà phòng diệt nấm SAStid hoặc nước quả chanh để tránh tái nhiễm. 

Thứ Năm, 26 tháng 9, 2013

Những miếng vảy nhỏ xuất hiện do da tiếp xúc với quá nhiều ánh nắng mặt trời, thường xuất hiện trên da vùng trán, cổ, hai tay, hoặc ở bất kỳ chỗ nào khác. Chúng có thể là sự khởi đầu của ung thư da.

Da chai cứng quang hóa thường xuất hiện ở người ngoài 40 tuổi, nhưng ngày càng nhiều người trẻ tuổi hơn mắc phải. Nếu phát hiện sớm và điều trị kịp thời sẽ dừng được quá trình đóng vảy các tế bào ung thư.


Các dấu hiệu báo động Môi khô nứt nẻ:

Dấu hiệu tiền ung thư thường xuất hiện trên môi dưới, môi khô, đóng vảy và nứt nẻ. Dấu hiệu khác ít phổ biến hơn gồm môi sưng phồng, đường nét giữa môi và da không còn rõ.
Sừng trên da:
Xuất hiện sừng trên da dạng phễu phát triển từ vết đỏ ở da. Đây là chất sừng cứng tương tự như loại chất protein tạo nên móng tay, móng chân.
 Tổn thương ung thư trên da
Kích cỡ và hình dạng của mảng sừng trên da này có thể rất đa dạng, nhưng hầu hết cỡ khoảng vài milimet. Các ung thư biểu mô đóng vảy thường được tìm thấy. Nó thường xuất hiện trên da những người lớn tuổi do quá trình tiếp xúc với mặt trời quá nhiều.
Nốt ruồi bất thường:
Nốt ruồi bắt đầu phát triển trên da. Một vài nốt có thể là khởi đầu của bệnh ung thư, những nốt ruồi bất thường và hiếm có khả năng phát triển thành khối u ác tính theo thời gian. Nốt ruồi thường thì tròn hoặc hình ovan và thường không quá lớn. Nhưng nó sẽ trở nên bất thường nếu nó phát triển dần lên trong nhiều năm đối với cả những người đã lớn tuổi.
Không phải cứ nốt ruồi bất thường là ung thư, mà chúng có khả năng trở thành ung thư. Có thể thấy ở các bộ phận trên cơ thể, cả những vùng da thường xuyên tiếp xúc với mặt trời hoặc vùng da được bảo vệ thường xuyên. Những nốt ruồi bất thường thường lớn, trên 1/4 inch và hình dạng lạ với vết lõm hoặc đường biên mờ với da, có thể thẳng hoặc lồi, mịn hoặc gồ ghề. Màu sắc có thể là hồng, đỏ, rám hoặc nâu.
Những lưu ý về nốt ruồi
Hầu hết nốt ruồi trên cơ thể trông tương tự như mọi nốt ruồi bình thường khác. Nếu có một nốt ruồi hoặc tàn nhang trông khác so với những cái còn lại như bán kính lớn hơn hoặc có dấu hiệu của khối u ác tính thì nên gặp bác sĩ chuyên khoa da liễu. Nó có thể là dấu hiệu của ung thư. Dấu hiệu là một trong những đặc tính quan trọng để xác định nốt ruồi bất thường của da bạn, do đó bạn nên lưu ý với 5 dấu hiệu sau:
1. Tính đối xứng:
Khi nốt ruồi hoặc tàn nhang của bạn có hình dạng không đối xứng trong khi bình thường chúng thường cân xứng thì bạn nên kiểm tra lại bằng cách vẽ một đường tưởng tượng chia dọc nốt đó ra và đối chiều xem nửa còn lại có tương đồng. Nếu không, bạn nên tìm gặp các chuyên gia da liễu.
2. Đường viền:
Nếu như đường viền ngoài của nốt ruồi bị mờ, không thấy rõ nét đường biên giữa da và nốt ruồi, trông khác thường với các nốt ruồi thường, bạn cần phải đi khám. Các thương tổn của khối u ác tính thường là nguyên nhân làm mờ các đường biên của nốt ruồi lạ trên da.
3. Màu sắc:
Nốt ruồi không có màu giống với những nốt ruồi khác trên da bạn, thì dù là màu sắc gì: nâu, đen, xanh đậm, trắng hay đỏ đều đáng nghi ngờ. Nốt ruồi bình thường sẽ có một màu sắc nhất định, tương tự và đồng đều nhau trên da. Nhưng nếu trên da bạn có nhiều nốt ruồi khác màu, khác hình dạng, khác màu: chỗ màu đậm, chỗ màu nhạt, bạn dứt khoát phải đi gặp bác sĩ.
4. Đường kính:
Một điểm đáng ngờ khi quan sát các nốt lạ trên da bạn là đường kính của chúng lớn hơn hẳn các nốt ruồi thông thường. Nốt ruồi thường chỉ nhỏ hơn hoặc bằng khoảng 6mm.
5. Độ lồi:
Nếu nốt lạ nổi lồi trên da bạn rõ nét, hãy gặp bác sĩ để kiểm tra xem có gì bất thường không. Bởi các khối u ác tính thường phát triển nhanh chóng về kích cỡ hoặc độ lớn. Một nốt ruồi cứ lớn dần, đổi màu, gây ngứa ngáy, khó chịu hoặc chảy máu thực sự là dấu hiệu đáng báo động.
Hãy kiểm tra da bạn sau khi tắm, lúc da còn ẩm ướt. Những vùng ung thư da thường xuất hiện ở lưng đối với đàn ông và chân đối với phụ nữ. Nhưng hãy cẩn thận kiểm tra mọi vùng da trên cơ thể bạn, xem xét các nốt ruồi, tàn nhang xem liệu có gì bất thường không, và nên kiểm tra mỗi tháng một lần. Chú ý cả những vùng da ít để ý đến như giữa các ngón chân, ngón tay, vùng háng, lòng bàn chân, phía da sau đầu gối. Kiểm tra cả da đầu và da cổ. Có thể dùng gương hoặc nhờ người quen xem giúp những vùng da bạn khó nhìn thấy. Hãy chú trọng đến các nốt lạ mới trên da, có thể chụp ảnh nốt đó lại theo thời gian và so sánh sự biến đổi. Cần theo dõi các nốt lạ, nhất là đối với tuổi vị thành niên, phụ nữ mang thai, hay người đang bước vào giai đoạn mãn kinh, bởi đó là khi hormone có nhiều thay đổi.
Nếu như các nốt trên da bạn có 1 trong 5 biểu hiện đã nhắc đến ở trên, hoặc nốt của bạn có xu hướng ngứa ngáy, đóng vảy, rỉ nước, không liền hoặc sưng phồng, đỏ tấy. Lúc đó bạn cần phải gặp bác sĩ ngay lập tức. Các bác sĩ sẽ trích mẫu từ nốt lạ của bạn và làm xét nghiệm kiểm tra. Nếu kết quả là ung thư, toàn bộ nốt lạ và vùng da quanh đó sẽ được cắt bỏ và khâu lại. Sau đó bạn cần một thời gian điều trị nhất định.
Vài nét về ung thư da
Ung thư da không bị u ác tính bao gồm: ung thư biểu mô tế bào vảy và ung thư biểu mô tế bào cơ bản.
Cả 2 loại này đều phổ biến và có thể chữa được nếu phát hiện và điều trị kịp thời. Người đã bị mắc ung thư da một lần nên cẩn trọng bởi rất dễ bị mắc lại, do đó nên kiểm tra định kỳ ít nhất 1 lần/năm.
U ác tính không phổ biến so với các loại bệnh ung thư da khác, nhưng nó đặc biệt nguy hiểm chết người. Dấu hiệu có thể nhận thấy ở u ác tính là sự thay đổi các nốt và vùng sắc tố trên da, như: thay đổi màu, bất cân xứng hình dạng, ngứa, chảy máu...
Ung thư biểu mô tế bào vảy là một dạng ung thư da không bị khối u ác tính. Nó xuất hiện với các nốt u đỏ, lớn thì đóng vảy, chảy máu hoặc phát triển thành mảng vảy, gây đau nhức mãi không lành. Vị trí các u này thường là trên mũi, trán, tai, môi dưới, cánh tay và một số vùng da thường xuyên tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Bệnh này có thể chữa trị nếu phát hiện sớm. Nếu để lâu, việc điều trị phụ thuộc nhiều vào giai đoạn của bệnh.
Ung thư biểu bì tế bào vảy dạng ung thư da mà lây lan khắp bề mặt da, thậm chí có thể lan vào bên trong cơ thể. Dấu hiệu dễ thấy của bệnh là các mảng màu đỏ, đóng vảy trên da, khiến nhiều người chủ quan dễ nhầm là phát ban, chàm, nốt sùi hay vẩy nến.
Ung thư tế bào cơ bản xuất hiện phổ biến nhất trong các loại ung thư da và cũng là loại dễ điều trị nhất. Bởi ung thư tế bào cơ bản lan chậm, hầu như chỉ xảy ra với người lớn. Khối u của bệnh ung thư này là u màu trắng đục như sáp, thường ở những nơi như tai, cổ, da mặt. U có thể là mảng nâu hoặc đỏ tươi, đóng vảy, phẳng ở lưng và ngực, hoặc hiếm gặp hơn là các vết sẹo trắng, trông như sáp.
Một số loại bệnh ung thư da ít gặp khác như Kaposi xacôm - thường thấy ở những người có hệ miễn dịch kém; ung thư biểu mô tế bào Merkel - xuất hiện ở những nơi da thường tiếp xúc với ánh mặt trời như đầu, cổ, tay, chân… nhưng sau đó lan rộng ra các vùng da khác của cơ thể, ung thư biểu mô tuyến bã nhờn - một bệnh ung thư khá nguy hiểm có nguyên nhân sâu xa từ các tuyến dầu trên da.
Cách phòng chống
Ánh nắng mặt trời là nguyên nhân lớn nhất gây ung thư da. Phơi nắng dưới môi trường tiềm ẩn nguy hiểm, sự bức xạ, thậm chí tính di truyền cũng đóng vai trò quan trọng. Theo nghiên cứu, những trường hợp sau dễ có nguy cơ mắc các bệnh ung thư da, bao gồm:
- Người da trắng và mắt sáng màu.
- Người có rất nhiều nốt ruồi hình dạng bất thường và kích cỡ lớn.
- Người trong gia đình có tiền sử mắc ung thư da.
- Người từng cháy nắng.
- Người sống ở môi trường nhiệt độ cao và ánh nắng mặt trời gay gắt quanh năm.
- Người từng phải điều trị bức xạ. Để hạn chế ung thư da bạn cần hạn chế tia cực tím tiếp xúc với da của bạn, đặc biệt từ 10 giờ sáng đến 4 giờ chiều, khi mà ánh nắng mặt trời đang mạnh và gay gắt nhất. Khi ra ngoài hãy dùng đến các đồ bảo vệ da như áo, mũ và kính chống nắng. Đừng quên đôi môi và đôi tai của bạn! Luôn chú ý chăm sóc da và lưu ý đến những biến đổi mới trên da bạn để có thể đến gặp bác sĩ da liễu kịp thời.

Chỉ xuất hiện với những cục cứng nhỏ bằng hạt đậu nhưng có thể phát triển thành loét. Bệnh có thể nhầm lẫn với một số bệnh lý khác như gôm lao, hồng ban nút, gôm giang mai, nấm sâu. Có những trường hợp có thể điều trị khỏi bằng thuốc kháng lao nhưng cũng có những trường hợp thầy thuốc phải sử dụng nhiều biện pháp chẩn đoán cũng chưa tìm ra nguyên nhân chính xác.

Bệnh gây nhiều tranh cãi
Năm 1861, Bazin miêu tả dạng viêm mô mỡ trên bệnh nhân bị bệnh lao và đặt tên là hồng ban rắn erythema induratum; với đặc điểm mô bệnh học là hoại tử thối. Biểu hiện lâm sàng là các phản ứng dạng nốt dưới da, một số tác giả đã từng nhận định đây là bệnh lao tại chỗ do có mối liên quan mật thiết giữa biểu hiện da với bệnh lao nội tạng, test nội bì dương tính và đáp ứng một phần với thuốc điều trị chống lao. Một số nghiên cứu trước đây khẳng định rằng bệnh hồng ban rắn Bazin không phải là kết quả trực tiếp của vi khuẩn lao tại mô mỡ của da. Tuy nhiên, những nghiên cứu hiện nay chỉ ra rằng, trong một nhóm nhỏ bệnh nhân bị viêm mao mạch nút và phản ứng Mantoux dương tính, tác giả đã phát hiện thấy mảnh DNA đặc hiệu của trực khuẩn lao tại mảnh sinh thiết da. Hình ảnh lâm sàng và mô học không có bất kỳ mối liên quan nào với bệnh lao. Danh từ hiện tại được sử dụng, viêm mao mạch nốt, nodular vasculitis, dùng để miêu tả tất cả các trường hợp viêm mô mỡ vùng thuỳ có hoặc không có liên quan đến bệnh lao.

 Tổn thương dạng nốt trong bệnh hồng ban rắn Bazin.
Nguyên nhân gây bệnh
Tác động ban đầu xuất hiện là viêm mao mạch tại mạch máu dưới da gây thiếu máu, làm viêm và tổn thương tế bào mỡ. Nguyên nhân của bệnh không rõ, nhưng giả thiết cho rằng là do phức hợp miễn dịch gây tổn thương mao mạch. Bằng miễn dịch huỳnh quang, phát hiện thấy có sự lắng đọng Ig, bổ thể và kháng nguyên vi khuẩn tại tổn thương viêm mao mạch nốt. Tuy vậy, hầu hết các trường hợp khác không có bằng chứng cụ thể ủng hộ cơ chế miễn dịch.
Nhận biết bệnh qua nốt gờ trên da
Bệnh thường gặp hơn ở nữ và biểu hiện lâm sàng là nốt, cục cứng phát triển chậm, kích thước bằng hạt đậu, hạt dẻ hoặc to hơn, khi bệnh toàn phát, các cục nổi cao lên mặt da, hình tròn hoặc bầu dục, giới hạn không rõ. Ngoài ra còn có thể xuất hiện mảng cứng, màu đỏ, thường xuất hiện hai bên, hay tái phát và tiến triển mạn tính. Vị trí hay gặp nhất là vùng bắp chân, nhưng tổn thương có thể gặp ở cẳng chân và đùi. Sớm hay muộn, tổn thương này có màu đỏ hơi xanh và thường loét trước khi lành để lại sẹo teo. Thông thường không đau, cá biệt có trường hợp rất đau. Giữa các cục có một đường nối giữa cục này với cục kia - đây là đặc điểm của hồng ban cứng Bazin (do tắc hệ thống nội mạc). Các cục mềm giữa sau đó thì loét ra. Loét có thể hình tròn hoặc hình bầu dục, thành thẳng đứng, đáy mềm màu vàng đỏ. Xung quanh loét có viền đỏ tím xơ cứng, không có giới hạn rõ rệt với da lành. Các cục này tồn tại rất lâu vài tháng, phát triển chậm, sẹo teo, bờ thâm tím, vị trí chủ yếu ở cẳng chân, ít khi có ở phía trước và hai bên cẳng chân. Vết loét tiến triển ra vùng bờ có thể tồn tại lâu trước khi lành. Có xu hướng tái phát theo mùa, bệnh thỉnh thoảng kéo dài nhiều năm. Thời tiết lạnh được coi là một yếu tố ảnh hưởng. Bệnh nhân bị viêm mao mạch nút thường có cảm giác bắp chân sưng to, nặng và có thể gặp dạng livedo ở cẳng chân và bàn chân.
Cách chẩn đoán và điều trị bệnh
Do viêm mao mạch nốt có thể liên quan đến bệnh lao, khi bệnh nhân bị viêm mao mạch nốt nên xét nghiệm chẩn đoán lao. Xét nghiệm Mantoux 1:10.000 (1 đơn vị PPD), Xquang phổi. Tuy nhiên, viêm mao mạch nốt có thể gặp ở bệnh nhân bị lao ngoài phổi.
Xét nghiệm mô bệnh học có thể thấy u hạt dạng lao, hoại tử mỡ, phản ứng tế bào khổng lồ và hoại thư thùy mỡ. Ở giai đoạn muộn, thâm nhiễm có thể lên tới trung bì. Viêm mao mạch kích thước trung bình, chủ yếu là tĩnh mạch nhưng đôi khi động mạch có ở trong thùy mỡ kèm theo xâm nhập viêm quanh thành mạch, tế bào nội mạch sưng lên và xuất hiện huyết khối. Viêm mao mạch nguyên phát gặp ở trường hợp sớm, nhưng đôi khi chỉ thấy viêm quanh huyết quản không đặc hiệu ở trường hợp muộn.

Điều trị: Khi các xét nghiệm mô học và nguyên nhân ủng hộ chẩn đoán viêm mao mạch nốt do lao, cần điều trị thuốc chống lao theo phác đồ. Thậm chí, trong trường hợp viêm mô mỡ không đặc hiệu mà xét nghiệm Mantoux dương tính theo kinh nghiệm cần thử điều trị thuốc chống lao. Trong trường hợp viêm mao mạch nốt mà các xét nghiệm lao âm tính, nghỉ ngơi tại giường và dùng steroid đường toàn thân. Thỉnh thoảng, các thuốc giảm đau không steroid và tetracyclin cũng có hiệu quả. Tác giả Schultz and Whiting báo cáo thử nghiệm lâm sàng điều trị viêm mao mạch nốt cũng như hồng ban nút điều trị bằng potassium iodide.  

Thứ Tư, 25 tháng 9, 2013

Màu sắc của da phụ thuộc vào chủng tộc và di truyền, nó được quyết định bởi nhiều yếu tố. Sự khác nhau của từng vùng da trên một người được quyết định bởi melanin. Ở vùng da nào có nhiều melanin thì da vùng đó càng trở nên sẫm màu hoặc đen. Phần lớn tổn thương tăng sắc tố da có mối liên quan đến tăng sản hắc bào, với nhiều biến thể hình dạng và kích thước.

Các dạng rối loạn tăng sắc tố da
Rối loạn tăng sắc tố da bẩm sinh là những rối loạn xuất hiện khi ta chào đời. Đó có thể là những bớt đen, xanh đen. Bớt xanh là một dạng u lành tính thường xuất hiện lúc sơ sinh và phát triển rõ ở tuổi trưởng thành. Nguyên nhân bệnh sinh của các bớt nêu trên tuy chưa rõ, nhưng nhiều ý kiến cho rằng những tổn thương trên là biểu hiện của các hắc bào chưa di cư hoàn toàn từ mào thần kinh đến biểu bì trong phôi bào. Ở đây có cả sự tăng số lượng hắc bào lẫn hàm lượng melanin. Hầu hết các tổn thương bớt là sự tăng sản lành tính. Tăng sắc tố da khu trú còn có thể gặp dưới hình thái các loại nốt ruồi, tàn nhang. Các tăng sản ác tính được gọi là melanosoma như nốt ruồi ác tính, bớt xanh ác tính.


Rối loạn tăng sắc tố da mắc phải thường gặp nhất là rám da, da đồi mồi, cường sắc tố sau viêm, u sừng tăng tiết bã do lão hóa, nốt ruồi biểu bì, nốt ruồi son, dày sừng sắc tố. Đấy là những biểu hiện về tình trạng rối loạn tăng sắc tố da khu trú. Có nhiều nguyên nhân gây rối loạn tăng sắc tố da khu trú thứ phát (nội sinh và ngoại sinh). Đối với những rối loạn tăng sắc tố da nội sinh thì nguyên nhân chính gây nên đó là sự lão hóa tất yếu của da, sự thay đổi nội tiết trong quá trình mang thai hoặc uống thuốc ngừa thai, những căng thẳng về tâm lý kéo dài, tình trạng nhiễm độc với các hóa chất kéo dài, nhất là đối với với các loại hóa chất có chứa thủy ngân, chì. Quá trình quang hóa dưới tác động của ánh nắng mặt trời là nguyên nhân hàng đầu (80 - 90%) gây ra tổn thương tăng sắc tố da khu trú ngoại sinh. Chính bức xạ tử ngoại UVA, UVB không những gây rối loạn tăng sắc tố da khu trú mà chính nó đẩy nhanh quá trình lão hóa da. UVA, UVB cũng là tác nhân gây đột biến trong ung thư da. Rối loạn tăng sắc tố da khu trú còn do các nguyên nhân khác như: tăng sắc tố sau viêm, sau một bệnh về da, hậu quả sau các phản ứng kéo dài do dị ứng với hóa mỹ phẩm hay sử dụng hóa mỹ phẩm có corticoid kéo dài, nhiễm trùng thâm nhiễm để lại rám da, do liệu pháp sai lầm trong xử lý mụn trứng cá ở mặt. Một số khác rối loạn tăng sắc tố da là dấu hiệu bệnh lý trong bệnh gan, trong rối loạn một số nội tiết tố khác, bệnh Addison. Trên thực tế thì tia cực tím không những có trong ánh nắng mặt trời mà nó còn có cả trong ánh sáng từ các nguồn sáng mạnh của các đèn thắp sáng.

Làm sao khắc phục khiếm khuyết rối loạn sắc tố da?
Những tổn thương tăng sắc tố da khu trú dù là bẩm sinh hay thứ phát thì nó thường là lành tính, rất hiếm gặp thoái hóa ác tính. Trong hơn 25 năm qua, chúng tôi thực hiện loại bỏ tổn thương này bằng kỹ thuật laser, có 14 trường hợp nghi ác tính, chúng tôi cho làm sinh thiết xét nghiêm tế bào học, thì chỉ có 3 trường hợp là có tổn thương ác tính. Tuy là tổn thương lành tính, song các tổn thương sắc tố vùng mặt lại làm nhiều chị em buồn phiền bởi nó làm mất đi vẻ đẹp của làn da. Điều này đã thôi thúc chúng ta tìm kiếm nơi điều trị cũng như những liệu pháp trị liệu. Rất lấy làm tiếc, nhiều liệu pháp trị liệu truyền thống như: cắt bỏ, áp lạnh, bào mòn bằng cơ học, lột da bằng hóa chất đã không mang lại hiệu quả như mong đợi. Ngược lại, nó có khả năng tạo sẹo hay sự biến đổi sắc tố vĩnh viễn. Để loại bỏ các tổn thương tăng sắc tố da, thậm chí có những bạn đã để cho người (xăm dạo) xăm lên tổn thương một màu mực khác, gây ra rất nhiều khó khăn cho việc điều trị sau này.
Ở người có làn da khỏe mạnh(nghĩa là làn da đẹp và mịn màng), khi các tế bào và tổ chức của da hoạt động bình thường, không có các rối loạn do các tác nhân có hại gây nên, kể cả các tác nhân ngoại sinh cũng như các tác nhân nội sinh. Các tổn thương rám da, tàn nhang, da đồi mồi hoặc cả trong rối loạn sắc tố bẩm sinh… đều có mối liên quan rất chặt chẽ với các rối loạn về sắc tố melanin. Bình thường, melanin được sản sinh ra để duy trì màu sắc của da. Melanin được phân bố đồng đều ở biểu bì. Những hạt melanin được xem như tấm lá chắn bảo vệ cho DNA của cơ thể tránh khỏi sự đột biến dưới tác động của tia cực tím có trong ánh nắng mặt trời hoặc trong các đèn phát quang. Tấm lá chắn này sẽ bị phá vỡ khi chúng ta phơi nắng với ánh nắng cường độ lớn và kéo dài. Trong tình huống này, cơ thể sẽ xuất hiện phản ứng với tia cực tím bằng cách gia tăng sản sinh các melanin hoạt động và dễ dàng tạo nên rám da. Da cũng có thể rám đen do sự gia tăng của phản ứng nội tiết tố kích thích melanocyte, hoặc nội tiết tố hướng vỏ thượng thận, hoặc do tăng sắc tố sau những viêm nhiễm. Khi bạn đã có những tổn thương tăng sắc tố da bẩm sinh hay tăng sắc tố da thứ phát như đã nêu trên, bạn cũng đừng quá lo lắng. Hiện tại chúng ta đã có các máy Laser sử dụng hiệu ứng phân hủy quang nhiệt chọn lọc để tẩy trắng các tổn thương nêu trên. Lý thuyết này được Parrish và Anderson đề xuất vào năm 1981 đã là lời giải cho các tổn thương sắc tố da và u máu phẳng da và một vài kỹ thuật y khoa khác. Các máy laser này phải có bước sóng có đỉnh hấp thụ cực đại hoặc gần kề cực đại với melanin và có độ rộng xung cực nhỏ để không gây tổn thương nhiệt cho các thành phần khác của da. Quá trình điều trị có có thể phải mất nhiều liệu trình, mỗi liệu trình sau cách liệu trình trước được khuyến cáo từ 45 - 60 ngày.

Bệnh lupus ban đỏ là bệnh tự miễn gây tổn thương nhiều cơ quan, trong đó viêm cầu thận chiếm tỉ lệ 60-75% bệnh nhân lupus ban đỏ. Bệnh gặp ở nữ nhiều hơn nam, với tỷ lệ so sánh là 9 nữ/1nam.

Bệnh lupus ban đỏ gây ra viêm cầu thận lupus
Cho đến nay người ta đã biết lupus ban đỏ là bệnh tự miễn và viêm cầu thận lupus là một hậu quả do nó gây ra. Các yếu tố có vai trò trong việc phát bệnh và kéo dài bệnh gồm: di truyền, rối loạn nội tiết, nhiễm khuẩn nhất là nhiễm virut, suy giảm miễn dịch của cơ thể. Bệnh lupus ban đỏ gây tổn thương ở nhiều cơ quan nên cũng có nhiều triệu chứng của các cơ quan đó như: da, khớp, thận, huyết, tim, não. Bệnh lupus ban đỏ diễn biến kịch phát nặng dần từng đợt, nặng nhất là khi có suy thận, hội chứng thận hư, tràn dịch màng ngoài tim, viêm cơ tim cấp, thiếu máu trầm trọng, tổn thương não cấp. Riêng ở thận chủ yếu là tổn thương cầu thận nên mới gọi là viêm cầu thận lupus. Các công trình nghiên cứu đã cho thấy viêm cầu thận lupus là bệnh tự miễn giống như lupus ban đỏ. Bởi vì trong bệnh lupus ban đỏ tìm thấy các kháng thể kháng ADN tự nhiên, kháng thể kháng ADN đã phân giải, kháng thể kháng nucleoprotein, kháng thể kháng yếu tố màng tế bào, kháng hồng cầu, kháng bạch cầu, kháng tiểu cầu...; còn trong bệnh viêm cầu thận lupus, cũng tìm thấy các phức hợp miễn dịch lưu hành trong máu hoặc hình thành tại chỗ như phức hợp miễn dịch phát động quá trình viêm tại cầu thận làm dày màng đáy, tăng sinh tế bào, xơ hóa cầu thận, tổn thương ống thận, kẽ thận…

Phát hiện sớm viêm cầu thận lupus có ý nghĩa đặc biệt
Viêm cầu thận lupus có ý nghĩa đặc biệt để tiên lượng bệnh lupus ban đỏ, vì suy thận cấp nặng trong những đợt kịch phát của bệnh lupus ban đỏ, bệnh nhân có thể tử vong. Bệnh lupus ban đỏ càng lâu, gây suy thận càng nặng và dẫn đến suy thận giai đoạn cuối, phải lọc máu hay ghép thận thì bệnh nhân mới sống được. Do đó việc chẩn đoán và điều trị tích cực viêm cầu thận lupus là rất quan trọng đối với sự sống còn của bệnh nhân. Muốn thế cần phải biết phát hiện sớm viêm cầu thận lupus để điều trị kịp thời.
Ở một bệnh nhân lupus ban đỏ, khi khởi phát viêm cầu thận, bệnh nhân sẽ có các biểu hiện sốt nhẹ, mệt mỏi, kèm theo một hay nhiều triệu chứng ban đỏ, đau khớp, rụng tóc... Thời kỳ viêm cầu thận lupus toàn phát, bệnh có các đợt kịch phát nối tiếp nhau, đợt sau diễn tiến nặng hơn đợt trước hoặc có thêm những tổn thương ở các cơ quan khác. Theo Hội Khớp học Hoa Kỳ đưa ra năm 1982, viêm cầu thận lupus được chuẩn hóa với 11 triệu chứng là: ban đỏ cánh bướm ở má; ban dạng đĩa; tăng cảm thụ với ánh sáng; loét niêm mạc miệng họng; viêm khớp nhưng không tổn thương; viêm tràn dịch màng phổi và/hoặc màng tim; tổn thương ở thận: có protein niệu thường xuyên và/hoặc có trụ niệu; biểu hiện thần kinh, tâm thần: co giật không rõ nguyên nhân, rối loạn tâm thần không rõ nguyên nhân; huyết học: thiếu máu tan máu, giảm bạch cầu, giảm tiểu cầu, giảm lympho bào; rối loạn miễn dịch: có tế bào LE, có kháng thể kháng AND tự nhiên, có kháng thể kháng Sm hoặc các tự kháng thể khác, có phản ứng giang mai (+) giả trên 6 tháng; kháng thể kháng nhân dương tính.
Ở một bệnh nhân lupus ban đỏ, khi có 4/11 triệu chứng nói trên, trong đó có tiêu chuẩn tổn thương ở thận, thì được chẩn đoán là viêm cầu thận lupus. Ở Việt Nam, Bệnh viện Bạch Mai đã đưa ra kinh nghiệm chẩn đoán viêm cầu thận lupus là: có biểu hiện viêm không đặc hiệu như sốt kéo dài không rõ nguyên nhân nhiễm khuẩn, đặc biệt là lao; tốc độ máu lắng tăng; globulin máu tăng; triệu chứng ở thận: phải có protein niệu dương tính với nồng độ 0,2 g/24giờ trở lên, có thể có kèm theo hồng cầu niệu, trụ niệu. Bệnh viêm cầu thận lupus cần phân biệt với các bệnh: lao, bệnh cầu thận do các nguyên nhân khác, đặc biệt là với viêm cầu thận mạn có suy thận.
 Tiêu bản tổn thương viêm cầu thận lupus.
Điều trị tích cực và duy trì điều trị
Điều trị viêm cầu thận lupus phải đồng thời với điều trị lupus ban đỏ. Cần điều trị tích cực trong những đợt kịch phát, phối hợp với những đợt điều trị duy trì, hạn chế tổn thương thận, đồng thời điều trị những tổn thương các cơ quan khác ngoài thận. Thuốc dùng là các thuốc ức chế miễn dịch như: corticosteroid, azathioprin, cyclophosphamid... Khi dùng các thuốc này, để hạn chế các tác dụng phụ của thuốc, phải kiểm tra công thức máu 1-2 tuần/lần, để điều chỉnh liều, soi bàng quang để phát hiện và xử lý những tổn thương ác tính. Lọc huyết tương khi có đợt tiến triển cấp tính nặng.Việc lựa chọn và phối hợp thuốc cần được xem xét kỹ lưỡng dựa vào các triệu chứng lâm sàng, tổn thương mô học thận và các rối loạn huyết thanh.

Điều trị các tổn thương ngoài thận của bệnh lupus ban đỏ như viêm tràn dịch đa màng, viêm phổi do lupus, biểu hiện thần kinh tâm thần: dùng corticosteroid liều thấp và các thuốc kháng viêm không steroid. Viêm đau khớp thường giảm nhanh khi dùng thuốc kháng viêm không steroid, như aspirin liều thấp.        
Design by Hao Tran | Blogger Theme by Sức khỏe sinh sản -