Thứ Năm, 10 tháng 10, 2013

(SKDS) - Bệnh porphyrin da mắc phải muộn (acquired porphyria cutanea tarda-APCT) là bệnh da ít gặp, với tỷ lệ mắc bệnh ước tính khoảng 1/25000 người. Bệnh có thể gặp ở mọi chủng tộc, mọi nơi trên thế giới. Bệnh gặp ở cả nam và nữ, và thường biểu hiện bệnh ở tuổi trung niên. Bệnh porphyrin da mắc phải muộn được xếp vào nhóm bệnh rối loạn chuyển hóa do rối loạn chức năng các loại men đặc hiệu trong chu trình tổng hợp HEME và porphyrin. Biểu hiện lâm sàng đặc trưng của bệnh là các tổn thương bọng nước, sẹo, nhạy cảm ánh sáng, tập trung chủ yếu ở vùng da hở, vùng tiếp xúc nhiều với ánh sáng. Bệnh thường gặp ở bệnh nhân có các bệnh về gan. Bệnh không nguy hiểm tới tính mạng nhưng ảnh hưởng đến sức khỏe, tâm lý, sinh hoạt, lao động và làm giảm chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.

Bệnh biểu hiện như thế nào?
Triệu chứng của bệnh gồm các biểu hiện chủ yếu là các tổn thương ở da điển hình với một số hình ảnh: Da xù xì, nhăn nheo, lồi lõm, mất độ trơn bóng. Xuất hiện các mụn nước, bọng nước kích thước vài milimet tới vài centimet, sau đó có thể trợt, loét, có chỗ đóng vảy da, vảy tiết. Vết trợt loét thường gặp sau các vết thương, trầy xước. Các vết loét khi lành có thể để lại nền da thô ráp với nhiều mụn, sẩn nhỏ li ti, màu trắng trông giống hạt kê (milia). Tổn thương thường để lại sẹo, teo da, vảy da, các đám tăng hoặc giảm sắc tố tạo ra các vùng da loang lổ. Bệnh tồn tại lâu dài có thể gặp hiện tượng rậm lông ở mặt: tai, má; tay, chân. Các sợi lông mọc ngày càng dài, rậm và đen hơn bình thường.
 
Ngoài ra tùy từng trường hợp còn có một số biểu hiện khác như: xạm da, rụng tóc do sẹo, tổn thương móng, bong móng, tổn thương da xơ cứng từng mảng. Trong giai đoạn xuất hiện bọng nước, tổn thương bọng nước thường đau, rát giống bị bỏng. Vị trí tổn thương da tập trung chủ yếu ở các vùng da hở, vùng tiếp xúc nhiều với ánh nắng như ở mặt, mặt duỗi cẳng, mu bàn tay; mu bàn chân.

 Bệnh porphyrin bẩm sinh
Nguyên nhân và cơ chế gây bệnh?
Cơ chế bệnh xuất hiện là do thiếu hoặc giảm chức năng của men uroporphyrinogen decarboxylase (UROD). Đây là một men quan trọng trong quá trình chuyển hóa, tổng hợp  HEME (là một thành phần trong cấu trúc nhiều loại tế bào quan trọng của cơ thể như hồng cầu). Khi thiếu men UROD, gây cản trở trong quá trình chuyển hóa bình thường để tổng hợp HEME, gây tăng và ứ trệ porphyrin hoặc các sản phẩm chuyển hóa trong chu trình tổng hợp HEME ở nhiều cơ quan, tổ chức trong cơ thể. Porphyrin và các sản phẩm chuyển hóa trên có khả năng hấp phụ ánh sáng và chuyển thành dạng năng lượng cao, từ đó gây tổn thương tại các mô có chứa các chất này.
 
Thiếu men UROD có thể do di truyền hoặc do mắc phải. Đối với thể bệnh di truyền, còn gọi là bệnh porphyrin da muộn gia đình (family porphyria cutanea tarda), gen mã hóa men này nằm ở vị trí 34 nhánh ngắn, cặp nhiễm sắc thể thứ nhất và bệnh di truyền trội. Khi thiếu men UROD xảy ra ở các tế bào gan, do sự tác động của một số yếu tố như rượu, nội tiết tố estrogen, sắt, một số loại virus, một số loại thuốc và hóa chất, sẽ tiến triển thành bệnh porphyrin da mắc phải muộn. Thể bệnh này chiếm tới 75% trong số bệnh nhân mắc bệnh porphyrin da muộn.
Rượu là yếu tố kích hoạt APCT. Rượu ảnh hưởng tới nhiều men chuyển hóa trong chu trình sinh tổng hợp HEME, từ đó làm tăng uroporphyrinogen trong huyết tương, tăng lượng uroporphyrinogen trong nước tiểu và phân. Uống rượu lâu dài làm tăng hấp thu sắt cũng là yếu tố kích hoạt bệnh porphyrin da mắc phải muộn.
Estrogen là nội tiết tố sinh dục thường được sử dụng trong thuốc tránh thai. Trước đây, tỷ lệ mắc APCT ở nam cao hơn nữ, nhưng từ khi thuốc tránh thai được sử dụng rộng rãi thì bệnh nhân nữ lại tăng lên đáng kể. Các nghiên cứu chỉ ra rằng tỷ lệ mắc APCT tăng cao ở những nam giới dùng estrogen trong trị liệu nội tiết tố để điều trị ung thư tinh hoàn hoặc trường hợp bổ sung nội tiết và liệu pháp nội tiết tố thay thế ở phụ nữ tiền mãn kinh.
Một số hóa chất khác cũng được cho là có vai trò quan trọng trong bệnh APCT. Hexachlorobenzene (HCB) là một hóa chất diệt nấm có thể làm giảm hoạt tính của men UROD. HCB làm tăng porphyrin lưu hành trong máu, trong gan, nước tiểu và phân, gây nên các biểu hiện bệnh APCT. Trên thế giới cũng có nhiều báo cáo về các trường hợp APCT do nhiễm HCB cấp hoặc mạn tính. Tetrachlorodibenzo-p-Dioxin là một hóa chất trong thành phần chất khai quang, diệt cỏ có độc tính cao. Hóa chất này độc và có khả năng phá hủy gan, gây ra bệnh APCT.
Nồng độ sắt trong huyết thanh cao hơn bình thường ở người bị APCT. Tỷ lệ người bệnh APCT cao ở những trường hợp nghiện rượu mạn tính và có nồng độ sắt huyết thanh cao. Sắt huyết thanh cao có khả năng ức chế hoạt động của men UROD, phá hủy màng các bào quan trong tế bào gan như các ty lạp thể, gây độc cho tế bào gan và ảnh hưởng tới chu trình tổng hợp HEME.
Một số virus như virus viêm gan C, HIV cũng có vai trò trong bệnh APCT. Đặc biệt ở những người có kết hợp với các yếu tố khác như uống nhiều rượu, sắt huyết thanh cao...
Làm thế nào để chẩn đoán được bệnh?
Bệnh cần được chẩn đoán và điều trị tại các cơ sở chuyên khoa da liễu. Chẩn đoán bệnh thường dựa vào các biểu hiện lâm sàng đặc hiệu trên da và xét nghiệm bao gồm: xét nghiệm định lượng uroporphyrinogen, porphyrin trong máu, xét nghiệm tìm uroporphyrinogen, coproporphirinogen, protoporphirinogen trong phân và nước tiểu. Một biện pháp đơn giản để xác định porphyrin trong nước tiểu là sử dụng đèn Wood soi sẽ thấy nước tiểu có màu đỏ. Ngoài ra còn có các xét nghiệm khác hỗ trợ chẩn đoán như sinh thiết da, sinh hóa, huyết học.
Bệnh được điều trị thế nào?
Điều quan trọng trong điều trị bệnh là: phải loại trừ các căn nguyên gây bệnh như: rượu, estrogen, sắt, nhiễm virus, một số loại thuốc và hóa chất... Không sử dụng các loại thuốc hoặc hoạt chất có hại cho gan. Các triệu chứng của bệnh có thể điều trị bằng một số phương pháp sau đây:
Giảm lượng máu trong cơ thể (phlebotomy): là phương pháp rút bớt máu trong cơ thể. Trong bệnh APCT, đây là lựa chọn trị liệu hàng đầu, dễ thực hiện và hiệu quả. Mỗi tháng có thể lấy 2 lần, mỗi lần 250-400ml máu tĩnh mạch. Trong thời gian 3-6 tháng.
Thuốc chống sốt rét: trong những trường hợp phương pháp điều trị trên không thể áp dụng hoặc có chống chỉ định, thuốc kháng sốt rét là lựa chọn tốt để thay thế. Thường sử dụng chloroquine hoặc hydroxychloroquine liều cao dùng hàng ngày hoặc liều thấp, tuần 2 lần. Một số trường hợp có thể dùng cả hai phương pháp điều trị trên.
Làm gì để phòng bệnh?
Phòng bệnh cần quan tâm đến các yếu tố căn nguyên nêu trên. Không sử dụng rượu, tránh hoặc ngưng dùng thuốc hoặc các hoạt chất có thể gây bệnh. Có chế độ dinh dưỡng cân đối, hợp lý. Điều trị sớm các bệnh lý của gan. Bảo vệ da bằng cách tránh nắng, che nắng thật tốt bằng các phương pháp vật lý và kem chống nắng. Khi đã bị bệnh, hạn chế các chấn thương, trầy xước trên da, đặc biệt các vùng hở, vùng phơi nhiễm ánh sáng.

Phòng và phát hiện sớm: Thường xuyên kiểm tra định kỳ ba tháng một lần chỉ số porphyrin trong máu, nước tiểu, phân để phát hiện và điều trị bệnh kịp thời.

Thứ Tư, 9 tháng 10, 2013

Chàm đầu chi là loại bệnh ngoài da phổ biến và là bệnh thường gặp ở những vùng khí hậu nhiệt đới.

Biểu hiện lâm sàng của bệnh rất đa dạng nhưng thường có đặc điểm chung như: ngứa ngáy, khó chịu; mụn nước thành từng mảng, giới hạn không rõ, tiến triển thành từng đợt, dai dẳng và hay tái phát.

 Biểu hiện bệnh chàm ở đầu chi.        Ảnh: TL
Bệnh thường tiến triển theo từng giai đoạn. Lúc đầu, mụn nước mọc rải rác hoặc tập trung ở rìa các ngón chân, tay hoặc kẽ chân với kích thước nhỏ như đầu đinh ghim, đôi khi to rõ như bọng nước, gây ngứa ngáy trên da. Mỗi đợt có thể kéo dài từ một vài ngày đến một vài tuần. Mụn nước có thể vỡ đi do bệnh nhân gãi hoặc vỡ tự nhiên. Đến giai đoạn này, mảng chàm lỗ chỗ nhiều vết trợt hình tròn còn gọi là giếng chàm (giai đoạn này dễ bị bội nhiễm). Huyết thanh chảy ra ngoài, nếu lấy bông hay giấy đắp lên thì huyết thanh sẽ tạo thành một mảng dày. Dần dần, sự xuất tiết giảm, vảy tiết khô đọng rồi bong ra để lộ lớp da nhẵn bóng mỏng. Lớp da vừa tái tạo, tự rạn nứt, bong thành mảng dày hoặc vụn như cám, hoặc da dày lên, tăng sắc tố, có kẻ ô gọi là liken hóa.
Sau một thời gian khá lâu nếu không có mụn nước tái phát da sẽ trở lại bình thường không có sẹo, bởi vì tổn thương chỉ nằm ở lớp thượng bì.
Khi mắc bệnh này, người bệnh cần đến gặp bác sĩ chuyên khoa để được chỉ định dùng thuốc bôi, uống. Không nên tự mua thuốc về bôi vì có thể làm bệnh nặng thêm. Bên cạnh đó, người bệnh nên tránh các loại chất tẩy rửa như xà phòng, nước rửa bát... Người bệnh cũng tránh những loại giày dép có màu và cứng gây chà sát lên vùng da bị chàm. Không được tự ý bóc da hay kỳ cọ vì sẽ dễ gây bội nhiễm. Bạn nên kiên trì điều trị theo chỉ dẫn của bác sĩ.

(SKDS) –  Bệnh viện (BV) Da liễu Trung ương tiếp nhận và điều trị một trường hợp bị bệnh mycetoma, hay còn gọi là bệnh bàn chân madura, một bệnh u nấm ở chân hiếm gặp. Bệnh nhân (BN) là chị Lương Thị T. (50 tuổi, làm ruộng, ở huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hoá). 

Từ 3 năm nay, ở cổ chân phải của chị T. xuất hiện các nốt nhọt sưng nề, có dịch mủ màu trắng. Càng ngày các nhọt càng lan rộng quanh cổ chân phải, tạo thành các lỗ dò mủ khiến BN đau nhức quanh cổ chân và sốt. BN đã đến BV Da liễu tỉnh Thanh Hoá điều trị 2 lần nhưng tổn thương chỉ đỡ trong thời gian dùng thuốc sau đó lại tái phát.

 
Chị T. được chuyển đến BV Da liễu Trung ương. Thăm khám ban đầu cho thấy toàn bộ vùng cổ chân và bàn chân bên phải sưng nề, trên nền đó có các lỗ dò ấn chảy mủ, tổ chức da sờ vào cứng và nóng hơn vùng da bình thường; cổ chân khó gấp vì tổn thương; BN vẫn đi lại được nhưng đau nhiều khi di chuyển và không chạy được.
 
Qua kết quả xét nghiệm, chụp phim Xquang và cộng hưởng từ cổ chân, các bác sĩ kết luận là bệnh mycetoma – một bệnh nhiễm khuẩn tại chỗ do nhiều chủng nấm hoặc actinomycetes do các sinh vật hoại sinh trong đất hoặc cây cỏ. Các vi sinh vật này xâm nhập vào dưới da qua các sang chấn trên da khi làm việc. Biểu hiện đặc trưng là các hạt do tập trung các vi sinh gây bệnh trong ổ áp-xe dò mủ, các hạt đào thải ra ngoài bề mặt da qua các lỗ dò.
 

Hậu quả gây hoại tử da, tổ chức dưới da, xương bàn chân, bàn tay và các vùng da khác của cơ thể. TS.BS. Nguyễn Duy Hưng - Trưởng phòng Chỉ đạo tuyến của BV và BS. Quang Minh - người trực tiếp điều trị cho biết: chị T. làm ruộng, có thể trong lúc lao động bị chấn thương tạo đường mở cho các tác nhân gây bệnh xâm nhập vào. Do điều trị ban đầu không tốt nên thương tổn càng ngày càng ăn sâu vào tổ chức dưới da và cơ, xương, khớp gây biến dạng và dị tật bàn chân phải. Bệnh chủ yếu gặp ở chân nhưng cũng có thể gặp ở các bộ phận khác của cơ thể như gáy (tổn thương do mang vác nặng), tay…
 
Hiện tại, bên cạnh việc dùng kháng sinh và kháng viêm tại chỗ, chị T đã được phẫu thuật để đánh giá tình trạng thương tổn xâm lấn vào tổ chức da, dưới da, cơ, xương khớp. BN được cắt bỏ các đường dò, các tổ chức xơ hoá; thăm dò tình trạng viêm xương và loại bỏ tổ chức xương viêm. Theo các bác sĩ, quá trình điều trị bệnh mycetoma sẽ phải kéo dài, có thể tới hàng năm.

Thứ Ba, 8 tháng 10, 2013

Lão hóa - quy luật của tự nhiên(SKDS) - Khi người ta càng lớn tuổi thì cơ thể càng có những thay đổi về giải phẫu và chức năng, đặc biệt là da và các cơ quan khác có xu hướng già đi, suy giảm tất cả các chức năng, đồng thời sự tái tạo kém hơn khi còn trẻ. 

Tuy nhiên, sự lão hóa có thể xảy ra sớm hơn do những tác động môi trường bên ngoài như ánh nắng, ô nhiễm môi trường… Ngoài ra, có nhiều bệnh lý liên quan tới lão hóa sớm của cơ thể. Cho tới nay, người ta biết được hơn 100 bệnh biểu hiện bệnh lý lão hóa sớm. Đại đa số những bệnh này là do yếu tố di truyền mặc dù bệnh không xuất hiện sớm ngay trong những năm đầu của cuộc đời. Các biểu hiện lão hóa da sớm thường biểu hiện là teo da, giảm tổ chức mỡ dưới da, da nhăn nheo, tóc bạc sớm, rụng tóc, teo móng tay, móng chân, thay đổi sắc tố trên da, da loang lổ trắng đen, loét da và da bị xơ cứng.

 Hội chứng lão hóa sớm
Lão hóa sớm
Các biểu hiện da mềm, nhiễm sắc tố lan tỏa và giãn mạch máu thường thấy rõ ở các chi, mặt và cổ. Dầy sừng các điểm hay bị tỳ đè như ở bàn chân, mắt cá sau khi bong ra có thể để lại vết loét không đau. Giọng nói có thể cao hoặc bị khàn do teo mỏng dây thanh âm và dính nắp thanh quản. Trí tuệ phát triển bình thường.
Trong số các hội chứng bệnh lý lão hóa sớm có Hội chứng lão hóa Werner. Đây là hội chứng lão hóa sớm ở người trưởng thành. Bệnh thường bắt đầu sau tuổi dậy thì, bệnh tiến triển nặng dần theo thời gian. Biểu hiện của bệnh là vóc người nhỏ bé, lão suy, đục thủy tinh thể, cứng khớp, sớm mãn kinh, xơ vữa động mạch sớm, và những biểu hiện lão hóa da sớm như tóc bạc sớm, xơ cứng bì, rụng tóc hói, các loét da và có nguy cơ bị bệnh ác tính cao hơn. Bệnh nhân còn có những biểu hiện thoái hóa nhiễm sắc thể, biến đổi chuyển hóa tổ chức, có những bất thường về hệ miễn dịch và nội tiết. Đây bệnh di truyền gen lặn, tần suất mắc khoảng 1-5%o. Đặc điểm bệnh học là lão hóa không đồng đều. Thượng bì teo, một số tuyến phụ da bị mất, trung bì dày, thoái hóa trung bì và cả hạ bì. Các mạch máu và thần kinh cũng bị biến đổi giống như trong bệnh tiểu đường. Những bất thường đó thường thấy rõ ở mặt, các chi hơn là thân mình.
Biểu hiện của bệnh sớm nhất có thể nhận thấy được là tóc bị bạc ở vùng thái dương, thường xảy ra trong độ tuổi 14-18. Tóc bạc nhanh và kèm theo rụng tóc. Tuy nhiên, những biểu hiện lão hóa thấy rõ nhất là vào lứa tuổi từ 18 đến 30 nhưng đôi khi cũng có thể xuất hiện sớm hơn. Chân, bàn chân và bàn tay thường bị tổn thương nặng nhất. Vùng mặt, cổ nhẹ hơn. Biểu hiện da teo và mất dần lớp mỡ dưới da làm cho da căng, bóng và dính vào dưới da. Da vùng chân mỏng đi, nhẽo, trái ngược với một số vùng da bình thường hoặc vùng thân bị béo phì và có thể kèm theo xơ cứng bì hoại thư ở đầu chi. Các biểu hiện da mềm, nhiễm sắc tố lan tỏa và giãn mạch máu thường thấy rõ ở các chi, mặt và cổ. Dầy sừng các điểm hay bị tỳ đè như ở bàn chân, mắt cá sau khi bong ra có thể để lại vết loét không đau. Giọng nói có thể cao hoặc bị khàn do teo mỏng dây thanh âm và dính nắp thanh quản. Trí tuệ phát triển bình thường.
Đa số người bệnh có dáng vóc nhỏ, suy giảm tuyến sinh dục gây ra lông vùng nách, sinh dục thưa hoặc không có lông, tuy nhiên có một số trường hợp phát triển vóc dáng bình thường và vẫn có thể sinh đẻ. Một số tuyến nội tiết khác cũng có thể bị ảnh hưởng như tiểu đường gặp khoảng 30%, và nhiều người bị rối loạn hấp thu glucoza. Tỷ lệ mắc ung thư cao, đặc biệt là sarcôm xơ gặp khoảng 20% trường hợp. Carcinoma có thể xảy ra trên các vết loét ở chân, nhưng hiếm gặp. Xơ vữa động mạch thường xảy ra sớm. Các rối loạn chuyến hóa có thế xảy ra. Bệnh nhân thường tử vong vào tuổi từ 40 đến 60 do bệnh lý nhồi máu cơ tim hay do ung thư. Chụp XQ có thể thấy rõ can xi hóa động mạch, dây chằng, gân và tổ chức dưới da đồng thời với hiện tượng loãng xương rất nặng, đặc biệt ở chân.
Những đặc điểm nổi bật của bệnh này là già trước tuổi, cơ thể không phát triển đầy đủ, biểu hiện giống như bệnh xơ cứng bì, đục thủy tinh thể là những triệu chứng rất đặc biệt không nhầm lẫn với bệnh khác được. Nghiên cứu về gen thì thấy  biến đổi gen WRN.

Điều trị chủ yếu là hỗ trợ và giảm các triệu chứng, trong đó cần quan tâm đến các vết loét ở chân, một số trường hợp phải cắt cụt nếu bị nặng. Đục thủy tinh thể cũng cần chăm sóc và có thể mổ. Phẫu thuật thẩm mỹ với mục đích tạo hình làm đẹp có thể áp dụng cho một số trường hợp.

(SKDS) - Mụn trứng cá thông thường gặp ở tuổi dậy thì (90% trước 20 tuổi); do sự tăng androgen. Tuy nhiên mụn có thể xảy ra ở người 20-30 tuổi, một số ít xuất hiện ở tuổi trung niên. Tổn thương đa dạng gồm sẩn, mụn mủ, nang, nốt, sẹo tại các vùng phân bố của tuyến bã (mặt, gò má, lưng, ngực, phần trên cánh tay).

Về mặt y học, danh từ “mụn trứng cá” dùng để chỉ một tình trạng viêm nhiễm ở nang lông tuyến bã, liên quan tới sự tăng tiết bã nhờn và sự hình thành nhân trứng cá. 
 Các tổn thương được hình thành do sự tăng tiết chất bã nhờn bị ứ đọng trong các nang lông bởi tình trạng bít tắc sự lưu thông của tuyến bã, đi kèm với tình trạng viêm nhiễm, thông qua sự phát triển của vi khuẩn Propionibacterium acnes trong các đơn vị nang lông tuyến bã.
Tất cả những hình ảnh trên chịu sự chi phối của rất nhiều thay đổi, các yếu tố có liên quan đến sự chuyển biến bên trong của cơ thể như: Tuổi tác, di truyền, những thay đổi về nội tiết; hậu quả của việc sử dụng thuốc (hydantoine, corticoids, Isoniazide, lithium, halothane, thuốc ngừa thai, vitamine B12); môi trường, khí hậu, thời tiết, hậu quả của stress, thi cử, lo âu, mất ngủ;  sử dụng thuốc bôi - mỹ phẩm không hợp lý...
Các thể nặng có thể cho biến chứng tại chỗ (sẹo) làm mất thẩm mỹ, ảnh hưởng nặng nề lên đời sống tình cảm, xã hội và nghề nghiệp của bệnh nhân. Thể rất nặng gây biến chứng toàn thân như nhiễm trùng huyết, phong thấp.

 Tổn thương da do mụn trứng cá.
Các thể bệnh mụn trứng cá
Các tổn thương dạng cồi mụn là các tổn thương sớm của mụn trứng cá, không có hiện tượng viêm. Gồm 2 loại: cồi đóng (mụn đầu trắng) là tổn thương ở nang lông phẳng hoặc hơi nhô lên, màu sắc như da thường; và cồi mở (mụn đầu đen) là các tổn thương hơi nhô lên, trung tâm nang lông có màu đen do nêm chặt chất sừng và lipid. Sẹo có thể là một biến chứng của cả hai dạng mụn trứng cá viêm và không viêm.
Mụn trứng cá đỏ: Tổn thương là hồng ban, sẩn, mụn mủ, dãn mao mạch. Vị trí: vùng giữa mặt như mũi má. Cằm đôi khi cũng bị.  
 Mụn trứng cá ở trẻ sơ sinh: Xảy ra vào khoảng trên 20% trẻ sơ sinh khỏe mạnh. Tổn thương thường xuất hiện vào khoảng 2 tuần tuổi và mất đi hoàn toàn trong vòng 3 tháng.
Mụn trứng cá ở trẻ nhỏ:  Xuất hiện ở độ tuổi 3-6 tháng và thường có sự hiện diện của cồi mụn. Sẩn, mụn mủ, nốt có thể cũng xuất hiện ở mặt và sẹo có thể xảy ra dù rằng bệnh cảnh thường nhẹ.
Mụn trứng cá sẹo lồi:  Là một dạng sẹo của viêm nang lông mạn tính mà bệnh cảnh là các sẩn và mụn mủ trên nền nang lông, dẫn đến các tổn thương dạng sẹo lồi.
Mụn trứng cá cụm: Là một dạng nặng của mụn trứng cá. Tổn thương là những nang chứa chất nhờn, những nốt viêm kết thành nhóm, cục, áp xe, tạo thành lỗ dò, loét xuất huyết. Khi lành để lại những sẹo rất xấu.
Mụn trứng cá ác tính:   Còn gọi  là mụn trứng cá loét và sốt cấp tính. Khởi phát đột ngột, nặng, thường gây loét, sốt, viêm đa khớp. Bệnh hiếm gặp, thường thấy ở nam giới trẻ có tiền căn mụn trứng cá. Toàn thân có sốt, gan lách to và đau, có thể có hồng ban nút, thiếu máu, viêm đa khớp Các bệnh nhân có mụn trứng cá ác tính và viêm nang lông dạng mụn trứng cá có thể có viêm xương-tủy xương đa ổ vô trùng.
Mụn trứng cá trầy xước ở phụ nữ trẻ:  Các bệnh nhân cào gãi và bóc gỡ các tổn thương (như cồi mụn, sẩn) có thể hiện diện với sự trầy xước thái quá, các vết lở có thể trở nên sâu xuống và tạo sẹo. Tổn thương có ưu thế quanh vùng chân lông, trán, vùng má phía trước tai, cằm.
Mụn trứng cá ở người trưởng thành: Là mụn trứng cá ở những người trên 25 tuổi, hay mụn trứng cá kéo dài, mụn trứng cá khởi phát trong độ tuổi dậy thì và tiếp tục nổi mụn kéo dài đến sau 25 tuổi và mụn trứng cá khởi phát muộn.
Trứng cá ngoại sinh: Thứ phát sau tác dụng trên da của các dầu khoáng chất sinh nhân trứng cá, gọi là “mụn dầu” hay bệnh trứng cá dầu ở đùi và cánh tay. Hay gặp ở thợ máy, chủ gara. Thứ phát sau mỹ phẩm chứa những dầu thực vật hay vaseline.
Nguyên tắc điều trị
 Chế độ ăn cần hạn chế đường, mỡ. Nên ăn nhiều rau, trái cây ít ngọt, tập thể dục thể thao đều đặn, chế độ làm việc không quá căng thẳng sẽ góp phần hạn chế sự bùng phát các tổn thương mụn trứng cá và cải thiện chức năng của da. Tôn trọng cấu trúc da. Không cắt, lể, nặn mụn không đúng phương pháp.  Tránh sử dụng mỹ phẩm, corticoides bôi, vệ sinh da, sạch, thoáng.
Các thuốc sử dụng điều trị mụn trứng cá phải được bác sĩ da liễu chỉ định.
Laser và các phương pháp dùng ánh sáng điều trị.

Tóm lại, mụn trứng cá là một bệnh có diễn tiến mạn tính, kéo dài liên tục trong nhiều năm, gây khó chịu cho người bệnh nhưng quan trọng nhất là các hậu quả về thẩm mỹ và tâm lý. Không dùng kem trộn, các loại kem có chứa chất corticoide để bôi lên mặt vì có nhiều biến chứng độc hại. Rửa mặt thật sạch sau khi dùng mỹ phẩm hoặc tiếp xúc với chất dầu khoáng gây mụn Tránh lo âu, thức khuya, mất ngủ. Sử dụng thuốc điều trị cần có sự chỉ dẫn của bác sĩ chuyên khoa da liễu. Vì mụn trứng cá có thể để lại biến chứng sẹo xấu cho nên người bệnh cần điều trị sớm và cẩn thận. Tuân thủ sự hướng dẫn của thầy thuốc.

Thứ Hai, 7 tháng 10, 2013

(SKDS) -  Chúng ta ai cũng muốn có một làn da trẻ, khỏe, đẹp. Quan trọng hơn da là bộ phận phản ánh rõ nét nhất sức khỏe, tinh thần của một con người. Cũng như tất cả các bộ phận khác trong cơ thể, da cũng bị già, lão hóa theo tuổi đời.  Nếu không có một liệu trình chăm sóc da phù hợp thì theo tuổi đời quá trình lão hóa da diễn ra ngày càng nhanh. Phóng viên Báo Sức khỏe & Đời sống có cuộc trao đổi với PGS.TS Trần Hậu Khang - Giám đốc Bệnh viện Da liễu Trung ương xung quanh vấn đề này.

PV: Nước ta nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Vậy xin ông cho biết tình hình bệnh da liễu ở nước ta hiện nay như thế nào ?
PGS.TS. Trần Hậu Khang: Da liễu là một chuyên ngành đặc biệt bao gồm nhiều nhóm bệnh khác nhau: Nhiễm trùng da (vi khuẩn, vi rút, kí sinh trùng) dị ứng – miễn dịch (viêm da tiếp xúc, viêm da cơ địa, viêm da mỡ,...) bệnh tự miễn (luput ban đỏ, viêm bì cơ, xơ cứng bì, pemphigus,...); Các bệnh da do di truyền, rối loạn chuyển hóa,... Mỗi nhóm bệnh có đặc thù riêng, có tỉ lệ bệnh khác nhau và liên quan tới nhiều yếu tố, nguyên nhân gây bệnh.
So với các nước trong khu vực, mô hình bệnh da liễu ở Việt Nam có nhiều điểm giống nhau. Điều này có thể do do điều kiện khí hậu, môi trường, vệ sinh,...

 PGS.TS Trần Hậu Khang
Trong các bệnh ngoài da gặp tại Bệnh viện Da liễu Trung ương thì nhiễm trùng da vẫn thường gặp nhiều nhất, đặc biệt là nhóm bệnh liên quan đến vệ sinh môi trường: nấm, ghẻ, chốc, nhọt. Các bệnh da có cơ chế miễn dịch, dị ứng cũng tương đối phổ biến, đặc biệt là viêm da cơ địa, viêm da tiếp xúc, viêm da dầu, vảy nến,... Trong những năm gần đây, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nhiều bệnh hiếm gặp cũng được phát hiện, đặc biệt là các bệnh da có cơ chế bệnh sinh phức tạp như: bệnh nhão da (cutis laxa), các loại ung thư da, mycosis fongoid, porphyria… Một điều đặc biệt có ý nghĩa là với sự đầu tư của Chính phủ, sự hợp tác giúp đỡ của WHO và các Tổ chức Phi Chính phủ, tỉ lệ bệnh phong đã giảm một cách có ý nghĩa từ 7/10.000 (1981) xuống 0,04/10.000 năm 2011. Tuy nhiên các bệnh LTQĐTD (STD) vẫn còn là vấn đề của y tế công cộng.
PV: Xin ông cho biết ngành Da liễu đã áp dụng những kỹ thuật hiện đại gì để chẩn đoán các bệnh da hiếm gặp, khó điều trị và có khó khăn gì trong quá trình thực hiện?
PGS.TS. Trần Hậu Khang: Chẩn đoán các bệnh da liễu chủ yếu dựa vào các đặc điểm lâm sàng. Tuy nhiên, nhiều bệnh với các triệu chứng không rõ ràng, nếu chỉ “nhìn”, “sờ” thì không thể xác định được. Vì vậy cần các xét nghiệm chuyên biệt, hiện đại mới chẩn đoán được. Đó là các xét nghiệm về mô bệnh học, miễn dịch học, dị ứng học, nấm học,... Hiện nay các trung tâm, bệnh viện lớn của chuyên ngành da liễu thực hiện thường qui các chẩn đoán về mô bệnh học, một số xét nghiệm để chẩn đoán căn nguyên dị ứng, nhuộm, soi, nuôi cấy phát hiện các vi sinh vật… Tại Bệnh viện Da liễu Trung ương, tuyến cao nhất của ngành Da liễu Việt Nam đã thực hiện các xét nghiệm cao cấp phục vụ công tác chẩn đoán, theo dõi điều trị như: PCR (Polymerase Chain Reaction), chẩn đoán căn nguyên dị ứng với 36 dị nguyên, labo chuẩn chẩn đoán HIV/AIDS, miễn dịch huỳnh quang, xác định các chủng nấm, nuôi cấy vi sinh, mô bệnh học... Vì vậy các bệnh da hiếm gặp với bệnh lý phức tạp đã được chẩn đoán và điều trị kịp thời, có hiệu quả.
Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất trong việc xây dựng phòng labo chuẩn là đào tạo các cán bộ có trình độ, tay nghề cao. Với chiến lược lâu dài, chúng tôi đã gửi các cán bộ đi đào tạo, học tập ở nước ngoài, đồng thời mời các chuyên gia có kinh nghiệm từ các nước trên thế giới (Mỹ, Pháp, Hàn Quốc, Nhật Bản, …) sang giúp đỡ tại chỗ nên trong 10 năm qua chúng tôi đã có một đội ngũ bác sĩ, kỹ sư, kỹ thuật viên có trình độ và tay nghề cao, đảm nhận và thực hiện thành thạo, có chất lượng các kỹ thuật hiện đại.
PV: Xin ông cho biết một số thành tựu nổi bật trong điều trị bệnh da của ngành Da liễu trong những năm gần đây?
PGS.TS Trần Hậu Khang: Trong những năm gần đây Bệnh viện Da liễu Trung ương, tuyến cao nhất về chẩn đoán, điều trị, phục hồi chức năng các bệnh da đã có những bước tiến đáng kể trong điều trị, đặc biệt là các bệnh da hiếm gặp, khó chẩn đoán, hay tái phát,...
Được trang bị các loại máy Laser hiện đại, chúng tôi đã điều trị có hiệu quả các “bớt” sắc tố bẩm sinh, u mạch máu, sẹo quá phát, sẹo lồi. Các loại ung thư da được phẫu thuật theo phương pháp mới (Moh’s surgery) nên rất hiệu quả, đảm bảo thẩm mỹ và tỉ lệ tái phát rất thấp. Các phương pháp vật lý trị liệu, phẫu thuật thẩm mỹ, phục hồi chức năng cho bệnh nhân phong và những người có các khiếm khuyết về da cũng được áp dụng thành công. Phương pháp sử dụng các sản phẩm tế bào gốc đã được thực hiện điều trị một số bệnh như rụng tóc, sẹo trứng cá, rám má... đạt kết quả khá tốt. Ngoài ra, các bệnh khó điều trị như vảy nến, luput ban đỏ, pemphigus, viêm da cơ địa... cũng đã được áp dụng các phương pháp điều trị mới và đạt được những kết quả rất khả quan.
Ngoài ra, một trong những thành tựu lớn nhất của ngành da liễu trong những năm qua là hạ thấp tỉ lệ lưu hành bệnh phong để tiến tới mục tiêu cuối cùng là thanh toán bệnh phong trong tương lai.
PV: Với vai trò là người đứng đầu ngành da liễu, xin ông cho biết hệ thống đào tạo nhân lực và mạng lưới hoạt động của chuyên ngành da liễu ở Việt Nam?
PGS.TS. Trần Hậu Khang: Chuyên ngành da liễu có một hệ thống, mạng lưới hoạt động từ trung ương xuống cấp cơ sở. Tại các bệnh viện da liễu trung ương và khu vực có các phòng chỉ đạo chuyên khoa phụ trách công tác chỉ đạo tuyến, giám sát, đào tạo,... trong công tác chống phong, các bệnh LTQĐTD và bệnh da.
 Xóa bớt thẩm mỹ
Mỗi một tỉnh có các đơn vị da liễu như: Bệnh viện Da liễu, Trung tâm Da liễu, Khoa Da liễu trong Trung tâm Phòng chống bệnh xã hội, Khoa Da liễu trong Bệnh viện Đa khoa, trong các Trung tâm phòng chống bệnh xã hội hay Trung tâm Y học Dự phòng. Tại cấp huyện có ít nhất 1 cán bộ phụ trách da liễu, đặc biệt là công tác phòng chống phong và STD. Có được hệ thống này là nhờ chiến lược đào tạo cán bộ chuyên khoa từ các trường đại học, bệnh viện da liễu tuyến trung ương. Chính vì vậy số lượng bác sĩ da liễu trong những năm qua đã tăng một cách đáng kể. Ngoài ra, để nâng cao chất lượng cho đội ngũ cán bộ, chúng tôi cũng có kế hoạch hàng năm gửi các bác sĩ trẻ ra nước ngoài đào tạo, nâng cao tay nghề. Đây là một trong những hoạt động có ý nghĩa để hội nhập quốc tế.
PV: Qua báo SKĐS, xin ông cho biết quá trình lão hóa của da và cách chăm sóc da bằng các công nghệ mới nhất ?
PGS.TS Trần Hậu Khang: Tất cả chúng ta ai cũng muốn có một làn da trẻ, khỏe, đẹp nhưng ít ai biết được rằng da là bộ phận phản ánh rõ nét nhất sức khỏe, tinh thần của một con người. Cũng như tất cả các bộ phận khác trong cơ thể, da cũng bị già, lão hóa theo tuổi đời. Tuy nhiên nếu không có sự hiểu biết về quá trình lão hóa của da thì không thể có một kế hoạch chăm sóc và dưỡng da có hiệu quả lâu dài.
Quá trình lão hóa của da trải qua 5 giai đoạn qua từng lứa tuổi. Bắt đầu là giảm độ ẩm, khô da từ năm 25 tới 29 tuổi. Đây là giai đoạn sớm rất khó nhận biết. Vì vậy nếu không có phương pháp chăm sóc, bảo vệ tốt thì tiến trình lão hóa sẽ tiếp tục và tăng lên từ năm 30 tuổi với sự giảm trao đổi chất và tái tạo các thành phần. Vì vậy bắt đầu xuất hiện các nếp nhăn ở khóe mắt, quanh miệng và tàn nhang.
Đến năm 36 tuổi bắt đầu có sự suy giảm các sợi chun (elastin) và collagen, bắt đầu giảm sự đàn hồi của da. Giai đoạn này cần có sự kiên trì với các phương pháp hỗ trợ đặc biệt để ngăn chặn sự lão hóa nhanh của da.
Tuy nhiên, khó khăn nhất là đến giai đoạn thứ 4 và thứ 5 (từ 40 đến 50 tuổi) vì giai đoạn này ảnh hưởng của tuổi tác, khí hậu, môi trường, nội tiết... da bắt đầu nhão, xệ, xơ, xuất hiện nhiều nếp nhăn, vết thâm,... rất khó khăn trong việc phục hồi.
Chính vì vậy, điều quan trọng là chúng ta phải có chương trình, kế hoạch bảo dưỡng, chăm sóc da để ngăn chặn, làm chậm lão hóa da từ khi còn trẻ. Nếu để chậm, khi đã xuất hiện các vết nhăn, rám má, giảm sự đàn hồi thì sự hồi phục là rất phức tạp. Hiện nay có nhiều phương pháp chăm sóc, chống lão hóa da như: Đắp mặt nạ collagen, uống collagen, sử dụng sản phẩm tế bào gốc, ánh sáng trị liệu,... Tuy nhiên, trước khi chuẩn bị cho mình một liệu trình chăm sóc da bạn cần đến các cơ sở chuyên khoa để các bác sĩ chuyên khoa da liễu khám, tư vấn để đưa ra các phương pháp phù hợp với các sản phẩm hợp với loại da của bạn.

(SKDS) -  “Cái răng, cái tóc là góc con người”. Câu nói trên dùng để chỉ một trong mười cái dễ thương của các bà, các cô mà người xưa thường nói về cái đẹp của phụ nữ, trong đó tóc được xếp hàng đầu.  Không chỉ riêng đối với phụ nữ, tóc có vai trò rất quan trọng trong vẻ đẹp của con người. Người khỏe mạnh sở hữu một mái tóc mềm mại, óng ả, mượt mà, ngược lại khi có vấn đề sức khỏe thì tóc trở nên khô, xơ xác, thậm chí gãy rụng.




Những hiểu biết về tóc
Bình thường, mỗi người có từ 100.000 đến 200.000 sợi tóc, trong đó khoảng 90% tóc luôn luôn ở giai đoạn “mọc” (anagen-giai đoạn phát triển), kéo dài từ 2-6 năm; khoảng 10% ở giai đoạn không mọc hay còn gọi là nghỉ ngơi (catagen-giai đoạn thoái triển), kéo dài từ 2-3 tháng. Ở cuối giai đoạn này (telogen-giai đoạn ngừng triển) là tóc sẽ rụng. Khi 1 sợi tóc rụng thì ngay dưới chân sợi tóc vừa rụng sẽ có một mầm tóc mới mọc lên thay thế sợi tóc cũ và chu kỳ mọc mới lại bắt đầu. Tóc mọc khoảng 1,2cm/tháng, theo tuổi tác tóc mọc chậm dần.
Cùng với thời gian tóc cũng có thể bị bệnh hoặc già đi và quá trình này sẽ tăng tốc với sự góp mặt của nhiều yếu tố tác động từ bên ngoài như hóa chất, ánh nắng, chế độ dinh dưỡng... Thông thường, mỗi ngày có khoảng 30-60 sợi tóc rụng và cũng có ngần ấy sợi tóc mới mọc. Khi số lượng tóc rụng mỗi ngày vượt quá 100 sợi thì có thể mắc bệnh rụng tóc.
Rụng tóc có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra. Dưới đây là một số bệnh lí rụng tóc thường gặp nhất và cách điều trị.

Rụng tóc từng vùng
Còn gọi là rụng tóc Pelade, thường gặp ở người lớn, trẻ tuổi (60% trước 20 tuổi), nam nhiều gấp đôi nữ, tỉ lệ 2/1.
Căn nguyêncủa bệnh còn chưa rõ. Hiện nay nhiều tác giả cho rằng rụng tóc Pelade là bệnh di truyền liên quan đến tế bào lympho T (khoảng 10-25%). Cũng có giả thuyết cho rằng nguyên nhân là rối loạn miễn dịch tại vùng rụng tóc do phát hiện được các bán kháng nguyên HLA DR4, DR5, DR11 DQ7. Ngoài ra, bệnh có liên quan đến thay đổi nội tiết, nhiễm khuẩn, đặc biệt các sang chấn tinh thần (stress). Bệnh có thể kết hợp với một số rối loạn khác như bạch biến, suy cận giáp, addison, viêm tuyến giáp hashimoto, nhược cơ nặng, hội chứng Down, thiếu máu ác tính.
Biểu hiện của bệnh: trên da đầu có một hay nhiều đám rụng tóc hình tròn, đường kính vài cm, da nhẵn trắng trông giống như sẹo, có khi các đám liên kết với nhau thành dải, vằn vèo “thể rắn bò”. Rìa đám rụng tóc có những sợi tóc gẫy ngắn, mập gọi là tóc “dấu chấm than”. Một số trường hợp có thể rụng nhẵn toàn bộ da đầu), thậm chí rụng cả lông mày, lông nách, lông mi.
Triệu chứng cơ năng thường không có gì đặc biệt. Có thể thấy các biểu hiện khác như loạn dưỡng móng, “rỗ móng”- phiến móng có hàng chục, hàng trăm lỗ nhỏ như “đê khâu” .
Bệnh có thể kéo dài hoặc tóc mọc lại một cách ngẫu nhiên sau vài tháng. Bệnh cũng thường tái phát. Nếu có các thay đổi ở móng và rụng tóc toàn phần thì tiên lượng thường không tốt.
Về điều trị: không có thuốc đặc trị, khó đánh giá tiên lượng vì nhiều khi ngẫu nhiên tóc mọc lại (≈ 60% trường hợp khỏi tự nhiên sau 6 tháng).
Có thể bôi bằng mỡ có cortioid hoặc tiêm nội tổn thương bằng kenacort hay triamcinolon acetonic, bôi anthraline cream 0,5%-3%, hoặc minoxidil 5%.
PUVA toàn thân có kết quả > 30 buổi chiếu PUVA tại chỗ. Corticoide liều cao từng đợt trong trường hợp rụng nhiều và đột ngột.  Methotrexate thường được chỉ định trong rụng tóc toàn bộ phối hợp với corticoide.
Ngoài ra có thể uống bepanthen, biotin, vitamin C, 3B, an thần, chiếu tia cực tím.
Rụng tóc androgen
Còn gọi là rụng tóc liên quan androgen hay chứng hói tiến triển. Từ đồng nghĩa: hói kiểu đàn ông, hói thông thường, rụng tóc có tính di truyền ở đàn bà. Loại này gặp ở nam nhiều hơn nữ. Tuổi ở nam thường ≥ 30-40, trong khi nữ xuất hiện muộn hơn.
Bệnh do bẩm sinh di truyền đa gen (di truyền trội ở nam, di truyền lặn ở nữ) và tác động của androgen lên nang tóc ở đầu làm nang tóc giảm kích thước, dần dần teo và rụng.
Phần lớn bệnh nhân (cả nam và nữ) có nội tiết bình thường nhưng do nang tóc có thụ cảm đặc biệt với testosteron làm chu kỳ “rụng - mọc” của tóc giảm xuống, tóc rụng nhiều hơn mọc đưa đến “hói”. Cơ chế tác động của androgen lên tế bào nang tóc dẫn đến AGA thì chưa rõ. Một số bệnh nhân có tăng androgen.
Ở nam giới, đầu tiên tóc rụng thưa dần ở phía trước trán, tạo thành hình lượn sóng chữ M, sau rụng đến vùng giữa đỉnh đầu và dần dần hói hoàn toàn phía trên (trán và đỉnh chẩm), riêng vùng thái dương hai bên và gáy vẫn còn tóc.
Ở đàn bà tóc rụng lan toả, tóc mỏng thưa đi. Ở nữ trẻ bị AGA có thể thấy các dấu hiệu nam tính hoá như có trứng cá, lông ở quá nhiều thân mình và vùng mặt, kinh nguyệt không đều. Bệnh tiến triển từ nhiều năm đến hàng chục năm.
Điều trị: không có phương pháp điều trị có hiệu lực cao để ngăn sự tiến triển của AGA. Dung dịch minoxidil 2% bôi tại chỗ làm giảm rụng tóc và mọc lại tóc, sau 4-12 tháng 40% mọc tóc lại.  Kháng androgen: spironolactone, cyproteron acetate, flutamid và cimetidine. Thuốc có tác dụng ở phụ nữ bị AGA, không dùng cho nam giới.
Tóc giả (Wig).  Phương pháp được coi là khả quan nhất hiện nay là cấy tóc. Chuyển các miếng ghép mô nang lông từ vùng gờ viền xung quanh (vùng tóc không mẫn cảm androgen) tới vùng hói ở đầu mẫn cảm androgen.

Rụng tóc telogen
Là loại rụng tóc xuất hiện sau khi bị ốm nặng (sốt rét, lỵ, thương hàn, sốt xuất huyết,...), sau sẩy thai, sinh đẻ, sau chấn thương lớn, sau mổ, mất máu...
Các nguyên nhân chính thường đi trước rụng tóc từ 6-16 tuần. Biểu hiện là tóc rụng nhiều trong thời gian ngắn, tóc mỏng thưa đi, lan toả trên da đầu. Bệnh nhân thường vuốt tóc thấy vài sợi hay nhiều sợi bị rụng (tóc giai đoạn telogen hoặc tóc đầu tày, hình dùi cui và rất lo lắng, sợ hãi sẽ bị hói. Các sợi tóc mới mọc lại ngắn, mảnh hơn tóc cũ và đuôi thon nhọn hơn.
Có thể thấy móng các ngón tay/chân có những đường hằn ngang (đường Beau) hoặc rãnh, khía ở bản móng.
Sau một thời gian tóc mọc lại, tuy nhiên nếu rụng nghiêm trọng và tái phát sau nhiều lần có thai kế tiếp nhau (chửa đẻ nhiều lần) có thể tóc mọc lại không hoàn toàn. Sau nguyên nhân tác động tóc có thể rụng kéo dài trong vòng 1 năm. Loại này không cần điều trị gì đặc biệt, vitamin B liều cao, calcium, về sau tóc sẽ mọc lại, giải thích cho bệnh nhân là cần chờ đợi.
 Chứng rụng tóc do nhiều nguyên nhân
Rụng tóc do nấm
Bệnh hay gặp ở trẻ nhỏ đặc biệt là tuổi tiền học đường hoặc học đường.
Nguồn lây chủ yếu từ vật nuôi như chó, mèo hay lây từ trẻ này sang trẻ khác, có khi thành dịch nhỏ tại vườn trẻ hoặc trường học.
Bệnh thường do hai loại nấm gây nên là Trichophytie gây tổn thương trên da đầu thành từng đám nhỏ và Microsporie gây tổn thương thành đám lớn.
Các chủng nấm Trichophyton thường gây bệnh là T.tonsuran, T. violaceum,  trong khi chủng nấm Microsporie thường gây bệnh là M.canis, M.gypseum và M.cookei.
Nhìn chung 2 loại nấm da đầu này đều gây gãy tóc.
 Rụng tóc do Trichophyton: trên da đầu có đám tròn to nhỏ không đều, ranh giới không rõ phủ vẩy da màu trắng đục, xen kẽ giữa các tóc lành có những sợi tóc bị xén ngắn chỉ còn 1-2 mm, hay bị xén cụt sát chân chỉ còn lại điểm đen như 1 hạt than “khảm” vào da đầu (trichophytie nông). Nguồn lây thường từ các chủng nấm lây từ người nên bệnh có thể lây trong gia đình hoặc vườn trẻ, trường học.
Loại nấm tóc Trichophyton thâm nhiễm và mưng mủ thường có nguồn lây từ súc vật sang người. Biểu hiện trên đầu là 1-2 đám tổn thương ranh giới rõ, viêm mạch, nhiễm cộm, trên bề mặt đầy vẩy mủ. Đó là một cụm áp xe nhỏ khu trú xung quanh chân lông còn gọi là “áp xe nang lông” mủ nặn ra từ các nang lông giống như mật trong các lỗ tầng ong còn có tên gọi “ kerion de celse”.
Rụng tóc do Microsporum: từng đám róc vẩy nhỏ ở da đầu, giới hạn không rõ rệt, có xu hướng liên kết với nhau có khi thành đám lớn hình nhiều vòng cung (microsporum có nguồn gốc từ người).
 Nếu là chủng microsporum có nguồn gốc lây từ súc vật sang thì ở da đầu thường có 1-2 đám vẩy da trắng mốc như rắc tro, lớn, hình tròn hay bầu dục, ranh giới rõ. Đôi khi bên cạnh đám lớn có 1-2 đám nhỏ hơn, toàn bộ tóc trong đám bị xén cụt chỉ còn cách da đầu 3-4 mm. Đặc biệt là chân tóc có chất bột trắng bám chặt như đi “bít tất” hay sợi tóc bị “nhúng chân vào bột”. Chất bột trắng đó thực chất là các bào tử nấm bám quanh chân tóc.
Điều trị:Dùng dầu gội có chứa kháng sinh chống nấm ketoconazole 2% mỗi tuần 2-3 lần.
Tại chỗ: Bôi cồn BSI 1%, dung dịch castellani hoặc mỡ clotrimazol 1%, kem nizoral, kem lamisil. Trường hợp Trichophyton thâm nhiễm và mưng mủ, ổ ápxe bùng nhùng mủ thì phải trích rạch làm sạch tổn thương, sau đó chấm các dung dịch sát khuẩn.
Toàn thân: dùng kháng sinh chống nấm nhóm griseofulvine hoặc itraconazol, trong đó griseofulvine thích hợp cho trẻ em hơn do ít độc.
Phòng bệnh: chủ yếu là vệ sinh môi trường sống sạch sẽ, hạn chế tiếp xúc vật nuôi, nhất là vật nuôi bị nhiễm nấm hoặc phải điều trị cho vật nuôi ngay khi phát hiện thấy nhiễm nấm.
Rụng tóc do các bệnh có tổn thương trên da đầu
Rụng tóc còn là hậu quả của các bệnh da hoặc toàn thân khác có đám tổn thương ở da đầu. Các tổn thương này có quá trình viêm, tạo mủ, tạo sẹo, teo da... gây teo hay hư tổn nang tóc làm tóc trong vùng đó bị rụng.
Các bệnh thường gặp là lupút ban đỏ mạn dạng đĩa, luput ban đỏ hệ thống, viêm nang lông trụi tóc, nấm tóc loại kerion, xơ cứng bì khu trú, bệnh muxin nang lông, nevi biểu bì, ung thư tế bào đáy, ung thư tế bào gai, u phần phụ (adnexal tumors), liken phẳng, chấn thương cơ học (tật nhổ tóc trichotillomania), tác nhân lý hóa học (bỏng, chiếu xạ, chất ăn mòn da)...

Trên đây là một số hình thái rụng tóc thường gặp nhất. Như vậy, rụng tóc do nhiều nguyên nhân gây ra. Khi bị rụng tóc, người bệnh nên đến khám bác sĩ chuyên khoa da liễu để xác định thể bệnh và có phương pháp điều trị thích hợp.

Thứ Sáu, 4 tháng 10, 2013

(SKDS) -  Với khí hậu nóng ẩm, nhiệt đới gió mùa; điều kiện vệ sinh, phong tục tập quán ở nhiều nơi còn thấp kém; việc dùng kháng sinh và corticoid kéo dài, không theo hướng dẫn của thầy thuốc... là cơ hội cho bệnh về da nói riêng và bệnh do nấm gây ra phát triển lan tràn.

Có rất nhiều loại bệnh da do nấm gây nên như nấm thân, nấm kẽ, nấm tóc, nấm móng, lang ben... tuy nhiên trong phạm vi bài viết này chỉ đề cập đến những vấn đề cơ bản về bệnh nấm thân  (hắc lào), nấm kẽ (nước ăn chân), nấm lang ben là các bệnh dễ có nguy cơ bùng phát trong điều kiện thời tiết nóng ẩm.
Nấm hắc lào
Đây là bệnh do vi nấm thuộc nhóm dermatophytes, hay gặp nhất là hai loại trychophyton và epidermophyton. Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi, nhưng thường gặp nhiều hơn ở tuổi thanh thiếu niên và trung niên.
Biểu hiện làm bệnh nhân khó chịu nhất là ngứa ở vùng da bị tổn thương, ngứa cả ngày lẫn đêm, ngứa nhiều hơn khi về đêm, khi đổ mồ hôi, hoặc khi thời tiết nóng bức... tổn thương cơ bản là các đám đỏ hình tròn, bầu dục hoặc đa cung, đường kính, số lượng khác nhau. Ranh giới rõ, có bờ viền, bờ có mụn nước, giữa có xu hướng lành, khô, bong vẩy nhẹ, phát triển ly tâm lan dần ra ngoại vi. Bệnh có thể gặp ở bẹn, chân tay, mặt, bụng, ngực... Nếu không điều trị kịp thời bệnh sẽ lây sang những vị trí khác của cơ thể, tăng mức độ tổn thương trên da, chàm hóa hoặc dễ dàng lây sang người khác do tiếp xúc trực tiếp hoặc lây qua quần áo.
Bệnh hắc lào tuy gây nhiều khó chịu cho người bệnh nhưng chữa trị không khó. Tuy nhiên nếu dùng thuốc không đúng, thuốc quá mạnh, bôi sang cả vùng da lành, da non thì sẽ gây ra tình trạng phỏng, chảy nước vùng bôi thuốc, thậm chí nếu dùng theo lời mách bảo không đúng còn gây nhiễm khuẩn, sưng đau.
Nguyên tắc điều trị
Phát hiện sớm, điều trị sớm, tránh lây lan trong tập thể.  Điều trị liên tục, đủ thời gian, đúng phác đồ. Không cào gãi, chà sát; kết hợp vệ sinh phòng bệnh ngoài da với tắm giặt, phơi nắng chăn màn, quần áo; kết hợp điều trị tại chỗ với điều trị toàn thân.
Những loại thuốc cổ điển như ASA, BSI... cũng có tác dụng tốt nhưng gây lột da nhiều, đau rát, có thể làm sạm da. Trong tuần 1: bôi BSI 2% hai lần sáng, chiều; sang tuần 2: sáng bôi BSI 2%; chiều bôi mỡ Benzosali; từ tuần 3: bôi mỡ Benzosali 1lần / ngày đến khi mịn da.
Hiện nay đã có những loại thuốc mới, có thể bôi hoặc uống. Thuốc bôi như ketoconazol, miconazol, clotrimazol... Những thuốc này có ưu điểm là không có màu, mùi thơm, không gây lột da, không sưng đau nhưng cũng có thể gây ra những dị ứng nhẹ. Những dị ứng này sẽ hết khi ngừng dùng thuốc.
Trong trường hợp bệnh tái phát nhiều lần có thể phải dùng thuốc chống nấm dạng uống. Thuốc cổ điển được sử dụng là Griseofulvin: thuốc được dùng trong nấm da mạn tính, tái phát dai dẳng điều trị bằng phác đồ thông thường không hết, hoặc nấm móng, nấm tóc, nấm da do chủng Tricophyton rubrum; thuốc không được dùng cho phụ nữ có thai, bệnh gan thận, người già, trẻ em, làm việc trên cao, người vận hành máy móc.
Hiện nay có thể dùng thuốc chống nấm thuộc nhóm azol như ketoconazol, fluconazol.
Tuy nhiên việc dùng thuốc gì và liều lượng như thế nào cần phải được thầy thuốc chuyên khoa da liễu khám và chỉ định, nếu tự ý dùng có thể sẽ xảy ra những tác dụng phụ nguy hiểm.
Nguyên nhân gây ra bệnh hắc lào là do sống trong môi trường không vệ sinh, người ra nhiều mồ hôi mà ít tắm giặt; bơi lội trong vùng nước bẩn. Chính vì vậy việc phòng bệnh phải bắt đầu bằng lối sống vệ sinh sạch sẽ, tắm gội và giặt giũ quần áo, chăn màn thường xuyên. Những người đang bị bệnh, bên cạnh việc dùng thuốc tại chỗ phải diệt nấm ở những vật dụng cá nhân như quần áo, chăn màn... bằng cách luộc ở nước sôi 100oC trong vòng 15 phút. Đối với người lành không mang bệnh không nên mặc quần áo chung với người khác, tránh làm việc nơi ẩm ướt, nếu ra mồ hôi nhiều cần phải thường xuyên tắm giặt và giữ khô những vùng da nếp như háng, nách, bẹn. Khi mắc bệnh phải đi khám để được hướng dẫn chữa trị đúng.

 Tổn thương da do nấm
Nấm kẽ
Căn nguyên của bệnh là do vi nấm epidermophyton, nấm trichophyton hay còn do nấm candida albicans. Bệnh bắt đầu ở giữa kẽ ngón chân thứ 3 và thứ 4. Kẽ ngón có hiện tượng bong xước da, màu hơi vàng, chảy dịch, có thể xuất hiện mụn nước. Bệnh thường gặp ở những người do nghề nghiệp phải tiếp xúc nước nhiều giờ liên tục trong nhiều ngày như nông dân, người làm vệ sinh cống rãnh, vận động viên bơi lội... nên trong dân gian hay gọi là nước ăn chân, tuy nhiên điều cần chú ý, nếu căn nguyên do nấm thì không nguy hiểm, nhưng nếu căn nguyên do nhiễm khuẩn mà bệnh nhân chủ quan không đi khám có thể dẫn tới nhiễm khuẩn toàn thân.
Về điều trị, thường sử dụng ketoconazol hoặc miconazol bôi tại chỗ, ngoài ra những người thường xuyên phải dầm trong nước bẩn, cần rửa chân bằng nước muối loãng, nước lá trầu không hay nước chè… sau đó lau thật khô mới được đi giày, tất. Bên cạnh đó, cần thường xuyên dùng dung dịch cồn iốt nồng độ thấp hoặc các loại bột có tác dụng diệt nấm ở bàn chân và kẽ ngón chân.
Nấm lang ben
Trong điều trị các bệnh nấm da việc dùng thuốc gì và liều lượng như thế nào cần phải được thầy thuốc chuyên khoa da liễu khám và chỉ định, nếu tự ý dùng có thể sẽ xảy ra những tác dụng phụ nguy hiểm.
Thuộc nhóm bệnh nấm gây bệnh ở lớp sừng. Tác nhân gây bệnh là malazzesia furfur  gồm có 2 loại Pityrosporum orbiculare  thâm nhập vào lớp sừng  và các lỗ chân lông và Pityrosporum ovale gây bệnh trên da đầu. Bệnh gặp ở ngư­ời nhiều mồ hôi và có thay đổi về thành phần hoá học của mồ hôi.
Bệnh bắt đầu bằng các chấm hồng nâu, hoặc trắng ở lỗ chân lông. Các chấm lớn dần lan rộng và liên kết với nhau, bờ nham nhở vòng vèo. Bề mặt tổn th­ương có vẩy da nhỏ cạo bong ra dễ dàng, gọi là dấu hiệu vỏ bào. Th­ương tổn không đau không ngứa hoặc ngứa ít lúc ra mồ hôi. Vị trí th­ường gặp ở ngực, lư­ng, cổ, bụng, vùng nếp gấp đôi khi có thể thấy ở da đầu, tay chân. Bệnh thư­ờng hay tái phát. Sau khi khỏi để lại đám mất màu khá lâu trông giống như­ bị bạch biến. Bệnh thư­ờng gặp ở n­ước nhiệt đới nóng ẩm.
Bệnh dễ điều trị nhưng hay tái phát. Tại chỗ có thể bôi các thuốc làm bong vẩy và diệt nấm như dung dịch ASA, cồn iode salicyle 2%, mỡ salicyle 3-5%. Tốt nhất nếu có điều kiện nên sử dụng các thuốc chống nấm mới thuộc nhóm nhân azole sẽ tốt hơn như kem ketoconazol hoặc fluconazol bôi 2 lần một ngày. Các trường hợp nặng có thể kết hợp với uống thuốc chống nấm toàn thân.
Lưu ý khi sử dụng thuốc chống nấm
Glyseofulvin là thuốc ít hấp thu qua đường tiêu hoá. Hấp thu thuốc qua đường tiêu hóa tăng lên khi uống trong hoặc sau các bữa ăn có nhiều chất béo. Phân bố nhiều ở da, tóc, móng, gan, mô mỡ và cơ xương. Tích luỹ nhiều trong các tế bào tiền thân keratin và có ái lực cao với mô nhiễm bệnh. Thuốc được chỉ định: điều trị các loại nấm da, tóc và móng nhạy cảm. Tác dụng không mong muốn: thường gặp là nhức đầu, chán ăn, buồn nôn, ban da, rối loạn cảm giác, viêm dây thần kinh ngoại biên, ngủ gà, chóng mặt, giảm bạch cầu. Do đó thuốc chống chỉ định khi người dùng có rối loạn chuyển hoá porphyrin, suy gan.
Ngược lại, ketoconazole lại là thuốc hấp thu được qua đường uống, tốt nhất ở pH acid (tức là khi đói). Thuốc phân bố vào các mô mềm, da, gân và các dịch như nước bọt, dịch khớp, mật, nước tiểu. Thuốc qua nhau thai và sữa mẹ nhưng không qua được hàng rào máu não. Thuốc được chỉ định trong điều trị các bệnh do nhiễm nấm nhạy cảm ở da, tóc, móng, đường tiêu hoá và nội tạng. Dự phòng và trị nấm ở người suy giảm miễn dịch và viêm da do tăng tiết bã nhờn. Nhưng tác dụng không mong muốn khi dùng (tùy theo thời gian và liều sử dụng) có thể gặp là buồn nôn, nôn, táo bón, đầy hơi, tiêu chảy, chảy máu tiêu hoá; thiểu năng tuyến thượng thận, gây chứng vú to ở nam giới và giảm tình dục; có thể gặp nhức đầu, chóng mặt, kích động hoặc ngủ gà, viêm da, phát ban, mày đay, tăng enzym gan.

Fluconazol hấp thu tốt qua đường tiêu hóa, không bị ảnh hưởng bới thức ăn và pH dạ dày. Phân bố tốt vào dịch cơ thể kể cả dịch não tủy, thải trừ chủ yếu qua nước tiểu. Thuốc có tác dụng tốt với hầu hết các chủng Candida kể cả nhiễm nấm ở giai đoạn cuối của bệnh nhân AIDS đã kháng thuốc trị nấm khác. Do đó thuốc được chỉ định sử dụng trong các trường hợp nhiễm nấm màng não do Cryptococcus, nhiễm nấm Candida thực quản ở bệnh nhân AIDS. Khi dùng thuốc cũng có thể gặp tăng men gan, ban da, buồn nôn, đau bụng...

(SKDS) -  Mùa hè nắng nóng, mưa giông thất thường tạo điều kiện rất thuận lợi cho các loại nấm gây bệnh phát triển. Nhưng mùa hè lại là mùa du lịch, nghỉ mát nên bạn cần phải đề phòng các bệnh nấm da vì khi đi du lịch, dã ngoại, tắm biển, da của bạn dễ bị nhiễm nấm và mắc bệnh.

Nấm thường lây trực tiếp
Các loại bệnh nấm da thường lây trực tiếp khi da của bạn tiếp xúc với bào tử nấm, sợi nấm trong thiên nhiên, trong không khí, đất, nước hoặc từ thực vật... hoặc khi bạn tiếp xúc với súc vật bị nấm như chó, mèo, trâu, bò, dê cừu... Những yếu tố thuận lợi để bệnh lây lan là: da của bạn bị tổn thương, mồ hôi lép nhép làm bở lớp sừng, cọ sát da làm xung huyết, nhất là trong điều kiện thiếu vệ sinh, ít tắm giặt, để cho nha bào, sợi nấm bám vào da có đủ thời gian nảy nở và phát triển thành bệnh.

Ảnh minh họa (nguồn Internet)
Biểu hiện một số bệnh nấm da thường gặp
Nấm cryptococcus neoformans gây viêm da là các vết loét có ranh giới rõ, hình tròn hoặc đa cung, ở giữa màu đỏ tím, xung quanh có quầng màu hồng, dưới là dịch và mủ. Tổn thương có thể lan rộng rồi có thể hoại tử và thành vết loét nông, tiến triển mạn tính.
Nấm Actinomyces gây bệnh ở vùng cổ, mặt, ngực, bụng: tổn thương ban đầu xuất hiện một hay nhiều cục ở dưới da, thường cứng chắc, không đau, gắn với nền sâu, sau dính với mặt da trên, thường có màu hồng, dần dần thành gôm mềm, nhũn ở giữa và dò mủ. 
Nấm Candida gây bệnh nứt mép: mép đỏ, nứt và loét trợt, hay kèm theo tưa trong miệng và có thể lan ra cả mặt. Viêm các kẽ như bẹn, nách, dưới vú, khoeo, khuỷu và ngón tay, kẽ ngón chân. Tổn thương là những vết đỏ, ranh giới rõ, hơi gồ cao, có vảy, có khi có mụn nước hoặc mụn mủ. Bề mặt thương tổn đỏ và ướt, bờ không đều, nham nhở, xung quanh có một viền vảy mỏng dễ bong. Nấm còn gây rụng tóc và không mọc lại; viêm móng do Candida.
Nấm penicillium gây tổn thương ở da, ở cơ cũng có thể xuất hiện những nốt sẩn giống như u mềm lây, dạng trứng cá mụn mủ, cục, hạt, loét và có áp-xe dưới da.
Các biện pháp phòng bệnh
Khi phát hiện có một số triệu chứng của bệnh nấm da nói trên, bạn phải đi khám và điều trị ở khoa da liễu bệnh viện vì điều trị bệnh nấm cần thời gian lâu dài và sử dụng thuốc kháng nấm thích hợp.

Phòng bệnh nấm da chủ yếu là các biện pháp vệ sinh. Bạn cần tắm rửa sạch sẽ bằng nước sạch hàng ngày, dùng xà phòng có độ kiềm thích hợp với độ pH của da khoảng 4,5 - 5,5; tránh xà phòng có độ kiềm cao quá làm khô da, giảm sức chống đỡ của da. Đối với người chế biến thực phẩm, hoa quả, bia thì cần phòng nhiễm nấm men gây viêm da bằng cách đeo găng tay, chân đi ủng. Hết giờ làm việc phải rửa sạch tay chân và lau khô, chú ý ở đầu móng, nếp, kẽ ngón tay, kẽ ngón chân, thay tất hằng ngày. Khi có người bị nấm da thì nên cách ly, luộc quần áo, lộn trái quần áo khi phơi nắng. Không dùng chung quần áo, giường chiếu, chăn màn, mũ, lược, khăn quàng, giày tất.  

Thứ Năm, 3 tháng 10, 2013

(SKDS) – Việt Nam là một đất nước nhiệt đới đón nhận rất nhiều ánh sáng mặt trời, đặc biệt là vào mùa hè. Vì vậy, các bệnh da gây nên do ánh sáng mặt trời và các bệnh da nặng lên do ánh sáng mặt trời ở nước ta là khá phổ biến.
Nhóm các bệnh da có biểu hiện ngứa liên quan tới ánh sáng mặt trời vốn đã tồn tại từ rất lâu, nó ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng cuộc sống của người bệnh. Chúng tôi xin giới thiệu một vài bệnh da phổ biến hay gặp vào mùa hè.


 Tổn thương da do vết cắn của bọ chét.
Côn trùng đốt:
Mùa hè nóng ẩm là điều kiện rất tốt cho các loại côn trùng phát triển như muỗi, bọ chét... Một số bệnh nhân có hiện tượng dị ứng với chất tiết của côn trùng tại vết đốt, dẫn đến phản ứng mạnh hơn so với người bình thường. Biểu hiện là: tại vị trí vết đốt nhanh chóng xuất hiện sẩn đỏ phù nề, ngứa nhiều. Thương tổn không chỉ xuất hiện tại vết đốt mà còn lan cả sang vùng da lành với các sẩn đỏ, mụn nước nhỏ ngứa nhiều. Thương tổn thoái lui để lại dát thâm. Bệnh tái đi tái lại nhiều lần tạo nên hình ảnh tổn thương ở các vùng da hở.
Mày đay do ánh sáng: Bệnh nhân bị nổi các sẩn phù tại vùng da tiếp xúc với ánh nắng, ngứa nhiều. Tiến triển cấp tính, xuất hiện nhanh và thoái lui nhanh khi bệnh nhân đi vào nơi bóng mát.
 Sẩn ngứa do ánh sáng: Ở những vùng da tiếp xúc với ánh nắng như mặt duỗi cẳng tay, cẳng chân, mu tay, mu chân, mặt, tam giác cổ áo... xuất hiện các sẩn chắc, dày sừng, ngứa nhiều. Bệnh nặng lên vào mùa hè và thoái lui vào mùa thu, mùa xuân
 Mày đay do ánh sáng thường xuất hiện ở vùng da tiếp xúc nhiều với ánh nắng.
Điều trị và phòng bệnh
Loại bỏ căn nguyên gây bệnh: Sử dụng thuốc diệt côn trùng, đi ngủ nằm màn (trong trường hợp bị côn trùng đốt); tránh tiếp xúc trực tiếp với ánh nắng, sử dụng các loại kem chống nắng (nếu bệnh nhân bị mày đay ánh nắng hoặc sẩn ngứa do ánh nắng), mặc quần áo dài tránh bị côn trùng đốt.

Điều trị triệu chứng: Sử dụng corticoid bôi tại chỗ; thuốc kháng histamin uống để giảm ngứa; uống các loại vitamin: C, B; ăn nhiều hoa quả, uống nhiều nước.  

(SKDS) – Với khí hậu nắng nóng, ẩm ướt của mùa hè tạo điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn, côn trùng, ký sinh trùng phát triển... Đây cũng là cơ hội để một số bệnh da có cơ hội phát triển hơn trong mùa này.

Rôm sảy
Là một trong những bệnh da phát triển khi thời tiết nóng bức với biểu hiện nổi nhiều đốm đỏ li ti gây ngứa mạnh ở các vùng ra nhiều mồ hôi như lưng, ngực, trán, cổ... Nguyên nhân là do thời tiết nắng nóng làm giãn các mao mạch trên da, tạo điều kiện cho các vi khuẩn xâm nhập gây nên hiện tượng viêm da (hay rôm sảy) và cũng chính thời tiết nóng bức thường gây tiết mồ hôi nhiều. Nếu mồ hôi không thoát hết sẽ gây ứ đọng trong các ống bài tiết trên da, các ống này bị bụi hay chất cặn bã bịt kín gây nổi các nốt viêm.
Rôm sảy xuất hiện ở mọi đối tượng, tuy nhiên, thường xuất hiện ở trẻ nhỏ do trẻ em có làn da mỏng và nhạy cảm hơn. Đa số trẻ chỉ bị rôm sảy khi nóng, còn khi thời tiết mát mẻ, rôm tự lặn hết không gây tác hại gì. Nhưng cũng có nhiều trẻ ít được chú ý tắm rửa, mụn rôm làm trẻ ngứa, gãi nhiều làm da sây sát, bị nhiễm khuẩn thêm thành những mụn mủ và nhọt.
Bệnh chữa trị đơn giản bằng cách giữ da sạch thoáng vào các ngày hè. Kinh nghiệm dân gian dùng mướp đắng giã nát pha với nước hoặc vò nát  (giã) kinh giới, hay sài đất với nước... rồi dùng nước này để tắm có tác dụng làm sạch da. Ngoài ra, có các loại phấn thuốc, phấn rôm, thuốc bôi, nhằm duy trì độ sạch của da, cản bụi nhằm phòng ngừa rôm sảy.

 Rôm sảy nhiễm khuẩn.
Bệnh chốc
Bệnh chốc lây do liên cầu, thường gặp ở trẻ em, có khi ở cả người lớn ở vùng đầu mặt sau có thể lan ra thân mình, tay chân. Tổn thương là bọng nước vài mm, bùng nhùng sau vài giờ thành mụn mủ rồi vỡ thành chợt đỏ nông, đóng vẩy tiết vàng kiểu mật ong rồi lành. Dịch mủ chảy ra có thể lây lan ra vùng khác. Một số trường hợp có biến chứng cầu thận cấp.
Cần chấm rửa vết thương bằng dung dịch berberin 1%o, nước lá chè tươi, bôi dung dịch xanh-methylen 1% hoặc tím metin 1%, hoặc betadin. Khi thương tổn đã khô chuyển sang bôi thuốc mỡ kháng sinh như tetraxyclin, fucidin, bactroban. Uống một đợt kháng sinh (nếu cần) để bệnh nhanh khỏi và tránh những biến chứng nguy hiểm như viêm cầu thận.
Đinh nhọt
Căn nguyên do tụ cầu vàng độc tính cao gây viêm toàn bộ nang lông. Nang lông bị hoại tử tạo thành “ngòi”. Biểu hiện lâm sàng là một khối đỏ viêm sưng tấy (1-5cm đường kính), đau, ban đầu cứng, sau mềm dần hoá mủ, tạo ngòi. Sau 8-10 ngày vỡ mủ thoát ngòi rồi lành sẹo. Triệu chứng toàn thân có khi sốt, mệt mỏi nhất là khi nhọt to hoặc nhiều nhọt.
Ở giai đoạn u tấy đỏ đau còn cứng chấm cồn iod 5% (chú ý không chích nặn sớm), uống hoặc tiêm kháng sinh tuỳ mức độ. Đến khi hoá mủ hoàn toàn chích nặn mủ ngòi để nhọt mau lành. Uống kháng sinh và thay băng đến khi lành.
Cần lưu ý nhọt ở vùng cằm mép gọi là “đinh râu” rất nguy hiểm dễ gây nhiễm khuẩn huyết không được chích nặn, chấm cồn iod 3-5%. Tiêm, uống kháng sinh liều cao và theo dõi chặt chẽ.

“Hậu bối” là cụm đinh nhọt có nhiều mủ, nhiều ngòi và có quá trình hoại tử phần mềm, thường ở người già yếu, suy giảm miễn dịch, đám tổn thương có đường kính từ 5-15cm, viêm tấy đỏ, có nhiều mủ, nhiều ngòi về sau hoại tử, có nguy cơ nhiễm khuẩn huyết, cần đi khám tại bệnh viện. Dùng kháng sinh liều cao và phối hợp kháng sinh, thay băng hàng ngày.

Thứ Tư, 2 tháng 10, 2013

(SKDS) - Cùng với sự phát minh mới về kỹ thuật, ứng dụng ánh sáng trong điều trị nói chung và bệnh da nói riêng đang đem lại kết quả tốt, chi phí thấp và an toàn, ứng dụng ánh sáng tại Việt Nam cũng đã được triển khai tại các cơ sở chuyên khoa da liễu, tuy nhiên, có những trường hợp không nên sử dụng phương pháp này mà có thể thay thế bằng những biện pháp khác phù hợp với tình trạng sức khỏe cũng như tình trạng bệnh đang mắc phải.

Việc ứng dụng ánh sáng trong điều trị bệnh đã có từ rất lâu nhưng chủ yếu mới sử dụng ánh sáng mặt trời. Sau thế kỷ 19, ánh sáng tử ngoại mới được nhận biết. Hiện nay, ứng dụng ánh sáng (quang trị liệu và quang hoá trị liệu) trong điều trị bệnh da rất đa dạng như điều trị bệnh vảy nến, bạch biến, viêm da cơ địa, rụng tóc thể mảng, sẩn cục, xơ cứng bì khu trú, lichen phẳng...
Một số phương pháp điều trị bệnh da bằng ánh sáng
Điều trị bệnh da bằng ánh sáng là phương pháp sử dụng ánh sáng (chủ yếu là tia cực tím) để điều trị bệnh da, trong đó, quang trị liệu là phương pháp điều trị sử dụng ánh sáng tương tác với chất/phân tử nội sinh nhạy cảm ánh sáng; quang hóa trị liệu là phương pháp điều trị sử dụng ánh sáng tương tác với chất/phân tử ngoại sinh nhạy cảm ánh sáng; quang động lực là phương pháp sử dụng chất nhạy cảm ánh sáng, oxy và ánh sáng để gây nên phản ứng quang hóa phá hủy tế bào ung thư.

 Người mắc bệnh pemphigus có thể bị nặng lên khi chiếu tia UV.
Quang trị liệu:
Hiện nay, các phương pháp được sử dụng là UVB dải rộng, UVB dải hẹp. UVB dải rộng sử dụng tia tử ngoại bước sóng trung bình 290-320nm, chủ yếu tác động vào lớp thượng bì nhưng thường gây đỏ da nhiều, dễ có tác dụng phụ. Trong khi đó, UVB dải hẹp có bước sóng ở khoảng 300-313nm có tác dụng nhất nên việc sử dụng UVB dải hẹp được sử dụng rộng rãi hiện nay rất có hiệu quả trong điều trị bệnh vảy nến.
Quang hóa trị liệu PUVA: Phương pháp điều trị sử dụng chất nhạy cảm ánh sáng (psoralen) và tia bức xạ không ion hóa có bước sóng dài (UVA). Các dạng điều trị PUVA bao gồm uống, bôi và tắm psoralen. Cách thức và thời gian sử dụng theo chỉ định của thầy thuốc đối với mỗi bệnh nhân. Số lần chiếu trong tuần 2-3 hoặc 4 lần/tuần.
Điều trị quang động lực (photodynamic therapy): sử dụng chất nhạy cảm ánh sáng là thuốc được sử dụng ở dạng bôi tại chỗ, uống hoặc tiêm tĩnh mạch như aminolevulinic acid (ALA)... Ứng dụng điều trị trong các bệnh: dày sừng ánh nắng ở mặt và da đầu; ung thư tế bào đáy; bệnh bowen; vảy nến...
Những trường hợp nào không được điều trị bằng ánh sáng
Những phụ nữ có thai và cho con bú tuyệt đối không sử dụng điều trị bằng phương pháp PUVB. Ngoài ra, người có tiền sử bệnh bị khối u ở da, bệnh có rối loạn sửa chữa nhân (khô da sắc tố, hội chứng cockayne gây rối loạn quá trình này). Người có tiền sử bệnh được điều trị trước đó bằng tia xạ, arsenic hay người mắc bệnh lupus ban đỏ hệ thống đều không sử dụng phương pháp này.

Một số trường hợp được bác sĩ chỉ định tương đối như một số bệnh có thể bị nặng lên khi chiếu tia UV như: pemphigus...; đang điều trị thuốc ức chế miễn dịch; dày sừng ánh sáng; bệnh lý gan thận nặng; đục nhân mắt...  
Design by Hao Tran | Blogger Theme by Sức khỏe sinh sản -