Thứ Ba, 8 tháng 10, 2013

(SKDS) - Mụn trứng cá thông thường gặp ở tuổi dậy thì (90% trước 20 tuổi); do sự tăng androgen. Tuy nhiên mụn có thể xảy ra ở người 20-30 tuổi, một số ít xuất hiện ở tuổi trung niên. Tổn thương đa dạng gồm sẩn, mụn mủ, nang, nốt, sẹo tại các vùng phân bố của tuyến bã (mặt, gò má, lưng, ngực, phần trên cánh tay).

Về mặt y học, danh từ “mụn trứng cá” dùng để chỉ một tình trạng viêm nhiễm ở nang lông tuyến bã, liên quan tới sự tăng tiết bã nhờn và sự hình thành nhân trứng cá. 
 Các tổn thương được hình thành do sự tăng tiết chất bã nhờn bị ứ đọng trong các nang lông bởi tình trạng bít tắc sự lưu thông của tuyến bã, đi kèm với tình trạng viêm nhiễm, thông qua sự phát triển của vi khuẩn Propionibacterium acnes trong các đơn vị nang lông tuyến bã.
Tất cả những hình ảnh trên chịu sự chi phối của rất nhiều thay đổi, các yếu tố có liên quan đến sự chuyển biến bên trong của cơ thể như: Tuổi tác, di truyền, những thay đổi về nội tiết; hậu quả của việc sử dụng thuốc (hydantoine, corticoids, Isoniazide, lithium, halothane, thuốc ngừa thai, vitamine B12); môi trường, khí hậu, thời tiết, hậu quả của stress, thi cử, lo âu, mất ngủ;  sử dụng thuốc bôi - mỹ phẩm không hợp lý...
Các thể nặng có thể cho biến chứng tại chỗ (sẹo) làm mất thẩm mỹ, ảnh hưởng nặng nề lên đời sống tình cảm, xã hội và nghề nghiệp của bệnh nhân. Thể rất nặng gây biến chứng toàn thân như nhiễm trùng huyết, phong thấp.

 Tổn thương da do mụn trứng cá.
Các thể bệnh mụn trứng cá
Các tổn thương dạng cồi mụn là các tổn thương sớm của mụn trứng cá, không có hiện tượng viêm. Gồm 2 loại: cồi đóng (mụn đầu trắng) là tổn thương ở nang lông phẳng hoặc hơi nhô lên, màu sắc như da thường; và cồi mở (mụn đầu đen) là các tổn thương hơi nhô lên, trung tâm nang lông có màu đen do nêm chặt chất sừng và lipid. Sẹo có thể là một biến chứng của cả hai dạng mụn trứng cá viêm và không viêm.
Mụn trứng cá đỏ: Tổn thương là hồng ban, sẩn, mụn mủ, dãn mao mạch. Vị trí: vùng giữa mặt như mũi má. Cằm đôi khi cũng bị.  
 Mụn trứng cá ở trẻ sơ sinh: Xảy ra vào khoảng trên 20% trẻ sơ sinh khỏe mạnh. Tổn thương thường xuất hiện vào khoảng 2 tuần tuổi và mất đi hoàn toàn trong vòng 3 tháng.
Mụn trứng cá ở trẻ nhỏ:  Xuất hiện ở độ tuổi 3-6 tháng và thường có sự hiện diện của cồi mụn. Sẩn, mụn mủ, nốt có thể cũng xuất hiện ở mặt và sẹo có thể xảy ra dù rằng bệnh cảnh thường nhẹ.
Mụn trứng cá sẹo lồi:  Là một dạng sẹo của viêm nang lông mạn tính mà bệnh cảnh là các sẩn và mụn mủ trên nền nang lông, dẫn đến các tổn thương dạng sẹo lồi.
Mụn trứng cá cụm: Là một dạng nặng của mụn trứng cá. Tổn thương là những nang chứa chất nhờn, những nốt viêm kết thành nhóm, cục, áp xe, tạo thành lỗ dò, loét xuất huyết. Khi lành để lại những sẹo rất xấu.
Mụn trứng cá ác tính:   Còn gọi  là mụn trứng cá loét và sốt cấp tính. Khởi phát đột ngột, nặng, thường gây loét, sốt, viêm đa khớp. Bệnh hiếm gặp, thường thấy ở nam giới trẻ có tiền căn mụn trứng cá. Toàn thân có sốt, gan lách to và đau, có thể có hồng ban nút, thiếu máu, viêm đa khớp Các bệnh nhân có mụn trứng cá ác tính và viêm nang lông dạng mụn trứng cá có thể có viêm xương-tủy xương đa ổ vô trùng.
Mụn trứng cá trầy xước ở phụ nữ trẻ:  Các bệnh nhân cào gãi và bóc gỡ các tổn thương (như cồi mụn, sẩn) có thể hiện diện với sự trầy xước thái quá, các vết lở có thể trở nên sâu xuống và tạo sẹo. Tổn thương có ưu thế quanh vùng chân lông, trán, vùng má phía trước tai, cằm.
Mụn trứng cá ở người trưởng thành: Là mụn trứng cá ở những người trên 25 tuổi, hay mụn trứng cá kéo dài, mụn trứng cá khởi phát trong độ tuổi dậy thì và tiếp tục nổi mụn kéo dài đến sau 25 tuổi và mụn trứng cá khởi phát muộn.
Trứng cá ngoại sinh: Thứ phát sau tác dụng trên da của các dầu khoáng chất sinh nhân trứng cá, gọi là “mụn dầu” hay bệnh trứng cá dầu ở đùi và cánh tay. Hay gặp ở thợ máy, chủ gara. Thứ phát sau mỹ phẩm chứa những dầu thực vật hay vaseline.
Nguyên tắc điều trị
 Chế độ ăn cần hạn chế đường, mỡ. Nên ăn nhiều rau, trái cây ít ngọt, tập thể dục thể thao đều đặn, chế độ làm việc không quá căng thẳng sẽ góp phần hạn chế sự bùng phát các tổn thương mụn trứng cá và cải thiện chức năng của da. Tôn trọng cấu trúc da. Không cắt, lể, nặn mụn không đúng phương pháp.  Tránh sử dụng mỹ phẩm, corticoides bôi, vệ sinh da, sạch, thoáng.
Các thuốc sử dụng điều trị mụn trứng cá phải được bác sĩ da liễu chỉ định.
Laser và các phương pháp dùng ánh sáng điều trị.

Tóm lại, mụn trứng cá là một bệnh có diễn tiến mạn tính, kéo dài liên tục trong nhiều năm, gây khó chịu cho người bệnh nhưng quan trọng nhất là các hậu quả về thẩm mỹ và tâm lý. Không dùng kem trộn, các loại kem có chứa chất corticoide để bôi lên mặt vì có nhiều biến chứng độc hại. Rửa mặt thật sạch sau khi dùng mỹ phẩm hoặc tiếp xúc với chất dầu khoáng gây mụn Tránh lo âu, thức khuya, mất ngủ. Sử dụng thuốc điều trị cần có sự chỉ dẫn của bác sĩ chuyên khoa da liễu. Vì mụn trứng cá có thể để lại biến chứng sẹo xấu cho nên người bệnh cần điều trị sớm và cẩn thận. Tuân thủ sự hướng dẫn của thầy thuốc.

Thứ Hai, 7 tháng 10, 2013

(SKDS) -  Chúng ta ai cũng muốn có một làn da trẻ, khỏe, đẹp. Quan trọng hơn da là bộ phận phản ánh rõ nét nhất sức khỏe, tinh thần của một con người. Cũng như tất cả các bộ phận khác trong cơ thể, da cũng bị già, lão hóa theo tuổi đời.  Nếu không có một liệu trình chăm sóc da phù hợp thì theo tuổi đời quá trình lão hóa da diễn ra ngày càng nhanh. Phóng viên Báo Sức khỏe & Đời sống có cuộc trao đổi với PGS.TS Trần Hậu Khang - Giám đốc Bệnh viện Da liễu Trung ương xung quanh vấn đề này.

PV: Nước ta nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Vậy xin ông cho biết tình hình bệnh da liễu ở nước ta hiện nay như thế nào ?
PGS.TS. Trần Hậu Khang: Da liễu là một chuyên ngành đặc biệt bao gồm nhiều nhóm bệnh khác nhau: Nhiễm trùng da (vi khuẩn, vi rút, kí sinh trùng) dị ứng – miễn dịch (viêm da tiếp xúc, viêm da cơ địa, viêm da mỡ,...) bệnh tự miễn (luput ban đỏ, viêm bì cơ, xơ cứng bì, pemphigus,...); Các bệnh da do di truyền, rối loạn chuyển hóa,... Mỗi nhóm bệnh có đặc thù riêng, có tỉ lệ bệnh khác nhau và liên quan tới nhiều yếu tố, nguyên nhân gây bệnh.
So với các nước trong khu vực, mô hình bệnh da liễu ở Việt Nam có nhiều điểm giống nhau. Điều này có thể do do điều kiện khí hậu, môi trường, vệ sinh,...

 PGS.TS Trần Hậu Khang
Trong các bệnh ngoài da gặp tại Bệnh viện Da liễu Trung ương thì nhiễm trùng da vẫn thường gặp nhiều nhất, đặc biệt là nhóm bệnh liên quan đến vệ sinh môi trường: nấm, ghẻ, chốc, nhọt. Các bệnh da có cơ chế miễn dịch, dị ứng cũng tương đối phổ biến, đặc biệt là viêm da cơ địa, viêm da tiếp xúc, viêm da dầu, vảy nến,... Trong những năm gần đây, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nhiều bệnh hiếm gặp cũng được phát hiện, đặc biệt là các bệnh da có cơ chế bệnh sinh phức tạp như: bệnh nhão da (cutis laxa), các loại ung thư da, mycosis fongoid, porphyria… Một điều đặc biệt có ý nghĩa là với sự đầu tư của Chính phủ, sự hợp tác giúp đỡ của WHO và các Tổ chức Phi Chính phủ, tỉ lệ bệnh phong đã giảm một cách có ý nghĩa từ 7/10.000 (1981) xuống 0,04/10.000 năm 2011. Tuy nhiên các bệnh LTQĐTD (STD) vẫn còn là vấn đề của y tế công cộng.
PV: Xin ông cho biết ngành Da liễu đã áp dụng những kỹ thuật hiện đại gì để chẩn đoán các bệnh da hiếm gặp, khó điều trị và có khó khăn gì trong quá trình thực hiện?
PGS.TS. Trần Hậu Khang: Chẩn đoán các bệnh da liễu chủ yếu dựa vào các đặc điểm lâm sàng. Tuy nhiên, nhiều bệnh với các triệu chứng không rõ ràng, nếu chỉ “nhìn”, “sờ” thì không thể xác định được. Vì vậy cần các xét nghiệm chuyên biệt, hiện đại mới chẩn đoán được. Đó là các xét nghiệm về mô bệnh học, miễn dịch học, dị ứng học, nấm học,... Hiện nay các trung tâm, bệnh viện lớn của chuyên ngành da liễu thực hiện thường qui các chẩn đoán về mô bệnh học, một số xét nghiệm để chẩn đoán căn nguyên dị ứng, nhuộm, soi, nuôi cấy phát hiện các vi sinh vật… Tại Bệnh viện Da liễu Trung ương, tuyến cao nhất của ngành Da liễu Việt Nam đã thực hiện các xét nghiệm cao cấp phục vụ công tác chẩn đoán, theo dõi điều trị như: PCR (Polymerase Chain Reaction), chẩn đoán căn nguyên dị ứng với 36 dị nguyên, labo chuẩn chẩn đoán HIV/AIDS, miễn dịch huỳnh quang, xác định các chủng nấm, nuôi cấy vi sinh, mô bệnh học... Vì vậy các bệnh da hiếm gặp với bệnh lý phức tạp đã được chẩn đoán và điều trị kịp thời, có hiệu quả.
Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất trong việc xây dựng phòng labo chuẩn là đào tạo các cán bộ có trình độ, tay nghề cao. Với chiến lược lâu dài, chúng tôi đã gửi các cán bộ đi đào tạo, học tập ở nước ngoài, đồng thời mời các chuyên gia có kinh nghiệm từ các nước trên thế giới (Mỹ, Pháp, Hàn Quốc, Nhật Bản, …) sang giúp đỡ tại chỗ nên trong 10 năm qua chúng tôi đã có một đội ngũ bác sĩ, kỹ sư, kỹ thuật viên có trình độ và tay nghề cao, đảm nhận và thực hiện thành thạo, có chất lượng các kỹ thuật hiện đại.
PV: Xin ông cho biết một số thành tựu nổi bật trong điều trị bệnh da của ngành Da liễu trong những năm gần đây?
PGS.TS Trần Hậu Khang: Trong những năm gần đây Bệnh viện Da liễu Trung ương, tuyến cao nhất về chẩn đoán, điều trị, phục hồi chức năng các bệnh da đã có những bước tiến đáng kể trong điều trị, đặc biệt là các bệnh da hiếm gặp, khó chẩn đoán, hay tái phát,...
Được trang bị các loại máy Laser hiện đại, chúng tôi đã điều trị có hiệu quả các “bớt” sắc tố bẩm sinh, u mạch máu, sẹo quá phát, sẹo lồi. Các loại ung thư da được phẫu thuật theo phương pháp mới (Moh’s surgery) nên rất hiệu quả, đảm bảo thẩm mỹ và tỉ lệ tái phát rất thấp. Các phương pháp vật lý trị liệu, phẫu thuật thẩm mỹ, phục hồi chức năng cho bệnh nhân phong và những người có các khiếm khuyết về da cũng được áp dụng thành công. Phương pháp sử dụng các sản phẩm tế bào gốc đã được thực hiện điều trị một số bệnh như rụng tóc, sẹo trứng cá, rám má... đạt kết quả khá tốt. Ngoài ra, các bệnh khó điều trị như vảy nến, luput ban đỏ, pemphigus, viêm da cơ địa... cũng đã được áp dụng các phương pháp điều trị mới và đạt được những kết quả rất khả quan.
Ngoài ra, một trong những thành tựu lớn nhất của ngành da liễu trong những năm qua là hạ thấp tỉ lệ lưu hành bệnh phong để tiến tới mục tiêu cuối cùng là thanh toán bệnh phong trong tương lai.
PV: Với vai trò là người đứng đầu ngành da liễu, xin ông cho biết hệ thống đào tạo nhân lực và mạng lưới hoạt động của chuyên ngành da liễu ở Việt Nam?
PGS.TS. Trần Hậu Khang: Chuyên ngành da liễu có một hệ thống, mạng lưới hoạt động từ trung ương xuống cấp cơ sở. Tại các bệnh viện da liễu trung ương và khu vực có các phòng chỉ đạo chuyên khoa phụ trách công tác chỉ đạo tuyến, giám sát, đào tạo,... trong công tác chống phong, các bệnh LTQĐTD và bệnh da.
 Xóa bớt thẩm mỹ
Mỗi một tỉnh có các đơn vị da liễu như: Bệnh viện Da liễu, Trung tâm Da liễu, Khoa Da liễu trong Trung tâm Phòng chống bệnh xã hội, Khoa Da liễu trong Bệnh viện Đa khoa, trong các Trung tâm phòng chống bệnh xã hội hay Trung tâm Y học Dự phòng. Tại cấp huyện có ít nhất 1 cán bộ phụ trách da liễu, đặc biệt là công tác phòng chống phong và STD. Có được hệ thống này là nhờ chiến lược đào tạo cán bộ chuyên khoa từ các trường đại học, bệnh viện da liễu tuyến trung ương. Chính vì vậy số lượng bác sĩ da liễu trong những năm qua đã tăng một cách đáng kể. Ngoài ra, để nâng cao chất lượng cho đội ngũ cán bộ, chúng tôi cũng có kế hoạch hàng năm gửi các bác sĩ trẻ ra nước ngoài đào tạo, nâng cao tay nghề. Đây là một trong những hoạt động có ý nghĩa để hội nhập quốc tế.
PV: Qua báo SKĐS, xin ông cho biết quá trình lão hóa của da và cách chăm sóc da bằng các công nghệ mới nhất ?
PGS.TS Trần Hậu Khang: Tất cả chúng ta ai cũng muốn có một làn da trẻ, khỏe, đẹp nhưng ít ai biết được rằng da là bộ phận phản ánh rõ nét nhất sức khỏe, tinh thần của một con người. Cũng như tất cả các bộ phận khác trong cơ thể, da cũng bị già, lão hóa theo tuổi đời. Tuy nhiên nếu không có sự hiểu biết về quá trình lão hóa của da thì không thể có một kế hoạch chăm sóc và dưỡng da có hiệu quả lâu dài.
Quá trình lão hóa của da trải qua 5 giai đoạn qua từng lứa tuổi. Bắt đầu là giảm độ ẩm, khô da từ năm 25 tới 29 tuổi. Đây là giai đoạn sớm rất khó nhận biết. Vì vậy nếu không có phương pháp chăm sóc, bảo vệ tốt thì tiến trình lão hóa sẽ tiếp tục và tăng lên từ năm 30 tuổi với sự giảm trao đổi chất và tái tạo các thành phần. Vì vậy bắt đầu xuất hiện các nếp nhăn ở khóe mắt, quanh miệng và tàn nhang.
Đến năm 36 tuổi bắt đầu có sự suy giảm các sợi chun (elastin) và collagen, bắt đầu giảm sự đàn hồi của da. Giai đoạn này cần có sự kiên trì với các phương pháp hỗ trợ đặc biệt để ngăn chặn sự lão hóa nhanh của da.
Tuy nhiên, khó khăn nhất là đến giai đoạn thứ 4 và thứ 5 (từ 40 đến 50 tuổi) vì giai đoạn này ảnh hưởng của tuổi tác, khí hậu, môi trường, nội tiết... da bắt đầu nhão, xệ, xơ, xuất hiện nhiều nếp nhăn, vết thâm,... rất khó khăn trong việc phục hồi.
Chính vì vậy, điều quan trọng là chúng ta phải có chương trình, kế hoạch bảo dưỡng, chăm sóc da để ngăn chặn, làm chậm lão hóa da từ khi còn trẻ. Nếu để chậm, khi đã xuất hiện các vết nhăn, rám má, giảm sự đàn hồi thì sự hồi phục là rất phức tạp. Hiện nay có nhiều phương pháp chăm sóc, chống lão hóa da như: Đắp mặt nạ collagen, uống collagen, sử dụng sản phẩm tế bào gốc, ánh sáng trị liệu,... Tuy nhiên, trước khi chuẩn bị cho mình một liệu trình chăm sóc da bạn cần đến các cơ sở chuyên khoa để các bác sĩ chuyên khoa da liễu khám, tư vấn để đưa ra các phương pháp phù hợp với các sản phẩm hợp với loại da của bạn.

(SKDS) -  “Cái răng, cái tóc là góc con người”. Câu nói trên dùng để chỉ một trong mười cái dễ thương của các bà, các cô mà người xưa thường nói về cái đẹp của phụ nữ, trong đó tóc được xếp hàng đầu.  Không chỉ riêng đối với phụ nữ, tóc có vai trò rất quan trọng trong vẻ đẹp của con người. Người khỏe mạnh sở hữu một mái tóc mềm mại, óng ả, mượt mà, ngược lại khi có vấn đề sức khỏe thì tóc trở nên khô, xơ xác, thậm chí gãy rụng.




Những hiểu biết về tóc
Bình thường, mỗi người có từ 100.000 đến 200.000 sợi tóc, trong đó khoảng 90% tóc luôn luôn ở giai đoạn “mọc” (anagen-giai đoạn phát triển), kéo dài từ 2-6 năm; khoảng 10% ở giai đoạn không mọc hay còn gọi là nghỉ ngơi (catagen-giai đoạn thoái triển), kéo dài từ 2-3 tháng. Ở cuối giai đoạn này (telogen-giai đoạn ngừng triển) là tóc sẽ rụng. Khi 1 sợi tóc rụng thì ngay dưới chân sợi tóc vừa rụng sẽ có một mầm tóc mới mọc lên thay thế sợi tóc cũ và chu kỳ mọc mới lại bắt đầu. Tóc mọc khoảng 1,2cm/tháng, theo tuổi tác tóc mọc chậm dần.
Cùng với thời gian tóc cũng có thể bị bệnh hoặc già đi và quá trình này sẽ tăng tốc với sự góp mặt của nhiều yếu tố tác động từ bên ngoài như hóa chất, ánh nắng, chế độ dinh dưỡng... Thông thường, mỗi ngày có khoảng 30-60 sợi tóc rụng và cũng có ngần ấy sợi tóc mới mọc. Khi số lượng tóc rụng mỗi ngày vượt quá 100 sợi thì có thể mắc bệnh rụng tóc.
Rụng tóc có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra. Dưới đây là một số bệnh lí rụng tóc thường gặp nhất và cách điều trị.

Rụng tóc từng vùng
Còn gọi là rụng tóc Pelade, thường gặp ở người lớn, trẻ tuổi (60% trước 20 tuổi), nam nhiều gấp đôi nữ, tỉ lệ 2/1.
Căn nguyêncủa bệnh còn chưa rõ. Hiện nay nhiều tác giả cho rằng rụng tóc Pelade là bệnh di truyền liên quan đến tế bào lympho T (khoảng 10-25%). Cũng có giả thuyết cho rằng nguyên nhân là rối loạn miễn dịch tại vùng rụng tóc do phát hiện được các bán kháng nguyên HLA DR4, DR5, DR11 DQ7. Ngoài ra, bệnh có liên quan đến thay đổi nội tiết, nhiễm khuẩn, đặc biệt các sang chấn tinh thần (stress). Bệnh có thể kết hợp với một số rối loạn khác như bạch biến, suy cận giáp, addison, viêm tuyến giáp hashimoto, nhược cơ nặng, hội chứng Down, thiếu máu ác tính.
Biểu hiện của bệnh: trên da đầu có một hay nhiều đám rụng tóc hình tròn, đường kính vài cm, da nhẵn trắng trông giống như sẹo, có khi các đám liên kết với nhau thành dải, vằn vèo “thể rắn bò”. Rìa đám rụng tóc có những sợi tóc gẫy ngắn, mập gọi là tóc “dấu chấm than”. Một số trường hợp có thể rụng nhẵn toàn bộ da đầu), thậm chí rụng cả lông mày, lông nách, lông mi.
Triệu chứng cơ năng thường không có gì đặc biệt. Có thể thấy các biểu hiện khác như loạn dưỡng móng, “rỗ móng”- phiến móng có hàng chục, hàng trăm lỗ nhỏ như “đê khâu” .
Bệnh có thể kéo dài hoặc tóc mọc lại một cách ngẫu nhiên sau vài tháng. Bệnh cũng thường tái phát. Nếu có các thay đổi ở móng và rụng tóc toàn phần thì tiên lượng thường không tốt.
Về điều trị: không có thuốc đặc trị, khó đánh giá tiên lượng vì nhiều khi ngẫu nhiên tóc mọc lại (≈ 60% trường hợp khỏi tự nhiên sau 6 tháng).
Có thể bôi bằng mỡ có cortioid hoặc tiêm nội tổn thương bằng kenacort hay triamcinolon acetonic, bôi anthraline cream 0,5%-3%, hoặc minoxidil 5%.
PUVA toàn thân có kết quả > 30 buổi chiếu PUVA tại chỗ. Corticoide liều cao từng đợt trong trường hợp rụng nhiều và đột ngột.  Methotrexate thường được chỉ định trong rụng tóc toàn bộ phối hợp với corticoide.
Ngoài ra có thể uống bepanthen, biotin, vitamin C, 3B, an thần, chiếu tia cực tím.
Rụng tóc androgen
Còn gọi là rụng tóc liên quan androgen hay chứng hói tiến triển. Từ đồng nghĩa: hói kiểu đàn ông, hói thông thường, rụng tóc có tính di truyền ở đàn bà. Loại này gặp ở nam nhiều hơn nữ. Tuổi ở nam thường ≥ 30-40, trong khi nữ xuất hiện muộn hơn.
Bệnh do bẩm sinh di truyền đa gen (di truyền trội ở nam, di truyền lặn ở nữ) và tác động của androgen lên nang tóc ở đầu làm nang tóc giảm kích thước, dần dần teo và rụng.
Phần lớn bệnh nhân (cả nam và nữ) có nội tiết bình thường nhưng do nang tóc có thụ cảm đặc biệt với testosteron làm chu kỳ “rụng - mọc” của tóc giảm xuống, tóc rụng nhiều hơn mọc đưa đến “hói”. Cơ chế tác động của androgen lên tế bào nang tóc dẫn đến AGA thì chưa rõ. Một số bệnh nhân có tăng androgen.
Ở nam giới, đầu tiên tóc rụng thưa dần ở phía trước trán, tạo thành hình lượn sóng chữ M, sau rụng đến vùng giữa đỉnh đầu và dần dần hói hoàn toàn phía trên (trán và đỉnh chẩm), riêng vùng thái dương hai bên và gáy vẫn còn tóc.
Ở đàn bà tóc rụng lan toả, tóc mỏng thưa đi. Ở nữ trẻ bị AGA có thể thấy các dấu hiệu nam tính hoá như có trứng cá, lông ở quá nhiều thân mình và vùng mặt, kinh nguyệt không đều. Bệnh tiến triển từ nhiều năm đến hàng chục năm.
Điều trị: không có phương pháp điều trị có hiệu lực cao để ngăn sự tiến triển của AGA. Dung dịch minoxidil 2% bôi tại chỗ làm giảm rụng tóc và mọc lại tóc, sau 4-12 tháng 40% mọc tóc lại.  Kháng androgen: spironolactone, cyproteron acetate, flutamid và cimetidine. Thuốc có tác dụng ở phụ nữ bị AGA, không dùng cho nam giới.
Tóc giả (Wig).  Phương pháp được coi là khả quan nhất hiện nay là cấy tóc. Chuyển các miếng ghép mô nang lông từ vùng gờ viền xung quanh (vùng tóc không mẫn cảm androgen) tới vùng hói ở đầu mẫn cảm androgen.

Rụng tóc telogen
Là loại rụng tóc xuất hiện sau khi bị ốm nặng (sốt rét, lỵ, thương hàn, sốt xuất huyết,...), sau sẩy thai, sinh đẻ, sau chấn thương lớn, sau mổ, mất máu...
Các nguyên nhân chính thường đi trước rụng tóc từ 6-16 tuần. Biểu hiện là tóc rụng nhiều trong thời gian ngắn, tóc mỏng thưa đi, lan toả trên da đầu. Bệnh nhân thường vuốt tóc thấy vài sợi hay nhiều sợi bị rụng (tóc giai đoạn telogen hoặc tóc đầu tày, hình dùi cui và rất lo lắng, sợ hãi sẽ bị hói. Các sợi tóc mới mọc lại ngắn, mảnh hơn tóc cũ và đuôi thon nhọn hơn.
Có thể thấy móng các ngón tay/chân có những đường hằn ngang (đường Beau) hoặc rãnh, khía ở bản móng.
Sau một thời gian tóc mọc lại, tuy nhiên nếu rụng nghiêm trọng và tái phát sau nhiều lần có thai kế tiếp nhau (chửa đẻ nhiều lần) có thể tóc mọc lại không hoàn toàn. Sau nguyên nhân tác động tóc có thể rụng kéo dài trong vòng 1 năm. Loại này không cần điều trị gì đặc biệt, vitamin B liều cao, calcium, về sau tóc sẽ mọc lại, giải thích cho bệnh nhân là cần chờ đợi.
 Chứng rụng tóc do nhiều nguyên nhân
Rụng tóc do nấm
Bệnh hay gặp ở trẻ nhỏ đặc biệt là tuổi tiền học đường hoặc học đường.
Nguồn lây chủ yếu từ vật nuôi như chó, mèo hay lây từ trẻ này sang trẻ khác, có khi thành dịch nhỏ tại vườn trẻ hoặc trường học.
Bệnh thường do hai loại nấm gây nên là Trichophytie gây tổn thương trên da đầu thành từng đám nhỏ và Microsporie gây tổn thương thành đám lớn.
Các chủng nấm Trichophyton thường gây bệnh là T.tonsuran, T. violaceum,  trong khi chủng nấm Microsporie thường gây bệnh là M.canis, M.gypseum và M.cookei.
Nhìn chung 2 loại nấm da đầu này đều gây gãy tóc.
 Rụng tóc do Trichophyton: trên da đầu có đám tròn to nhỏ không đều, ranh giới không rõ phủ vẩy da màu trắng đục, xen kẽ giữa các tóc lành có những sợi tóc bị xén ngắn chỉ còn 1-2 mm, hay bị xén cụt sát chân chỉ còn lại điểm đen như 1 hạt than “khảm” vào da đầu (trichophytie nông). Nguồn lây thường từ các chủng nấm lây từ người nên bệnh có thể lây trong gia đình hoặc vườn trẻ, trường học.
Loại nấm tóc Trichophyton thâm nhiễm và mưng mủ thường có nguồn lây từ súc vật sang người. Biểu hiện trên đầu là 1-2 đám tổn thương ranh giới rõ, viêm mạch, nhiễm cộm, trên bề mặt đầy vẩy mủ. Đó là một cụm áp xe nhỏ khu trú xung quanh chân lông còn gọi là “áp xe nang lông” mủ nặn ra từ các nang lông giống như mật trong các lỗ tầng ong còn có tên gọi “ kerion de celse”.
Rụng tóc do Microsporum: từng đám róc vẩy nhỏ ở da đầu, giới hạn không rõ rệt, có xu hướng liên kết với nhau có khi thành đám lớn hình nhiều vòng cung (microsporum có nguồn gốc từ người).
 Nếu là chủng microsporum có nguồn gốc lây từ súc vật sang thì ở da đầu thường có 1-2 đám vẩy da trắng mốc như rắc tro, lớn, hình tròn hay bầu dục, ranh giới rõ. Đôi khi bên cạnh đám lớn có 1-2 đám nhỏ hơn, toàn bộ tóc trong đám bị xén cụt chỉ còn cách da đầu 3-4 mm. Đặc biệt là chân tóc có chất bột trắng bám chặt như đi “bít tất” hay sợi tóc bị “nhúng chân vào bột”. Chất bột trắng đó thực chất là các bào tử nấm bám quanh chân tóc.
Điều trị:Dùng dầu gội có chứa kháng sinh chống nấm ketoconazole 2% mỗi tuần 2-3 lần.
Tại chỗ: Bôi cồn BSI 1%, dung dịch castellani hoặc mỡ clotrimazol 1%, kem nizoral, kem lamisil. Trường hợp Trichophyton thâm nhiễm và mưng mủ, ổ ápxe bùng nhùng mủ thì phải trích rạch làm sạch tổn thương, sau đó chấm các dung dịch sát khuẩn.
Toàn thân: dùng kháng sinh chống nấm nhóm griseofulvine hoặc itraconazol, trong đó griseofulvine thích hợp cho trẻ em hơn do ít độc.
Phòng bệnh: chủ yếu là vệ sinh môi trường sống sạch sẽ, hạn chế tiếp xúc vật nuôi, nhất là vật nuôi bị nhiễm nấm hoặc phải điều trị cho vật nuôi ngay khi phát hiện thấy nhiễm nấm.
Rụng tóc do các bệnh có tổn thương trên da đầu
Rụng tóc còn là hậu quả của các bệnh da hoặc toàn thân khác có đám tổn thương ở da đầu. Các tổn thương này có quá trình viêm, tạo mủ, tạo sẹo, teo da... gây teo hay hư tổn nang tóc làm tóc trong vùng đó bị rụng.
Các bệnh thường gặp là lupút ban đỏ mạn dạng đĩa, luput ban đỏ hệ thống, viêm nang lông trụi tóc, nấm tóc loại kerion, xơ cứng bì khu trú, bệnh muxin nang lông, nevi biểu bì, ung thư tế bào đáy, ung thư tế bào gai, u phần phụ (adnexal tumors), liken phẳng, chấn thương cơ học (tật nhổ tóc trichotillomania), tác nhân lý hóa học (bỏng, chiếu xạ, chất ăn mòn da)...

Trên đây là một số hình thái rụng tóc thường gặp nhất. Như vậy, rụng tóc do nhiều nguyên nhân gây ra. Khi bị rụng tóc, người bệnh nên đến khám bác sĩ chuyên khoa da liễu để xác định thể bệnh và có phương pháp điều trị thích hợp.

Thứ Sáu, 4 tháng 10, 2013

(SKDS) -  Với khí hậu nóng ẩm, nhiệt đới gió mùa; điều kiện vệ sinh, phong tục tập quán ở nhiều nơi còn thấp kém; việc dùng kháng sinh và corticoid kéo dài, không theo hướng dẫn của thầy thuốc... là cơ hội cho bệnh về da nói riêng và bệnh do nấm gây ra phát triển lan tràn.

Có rất nhiều loại bệnh da do nấm gây nên như nấm thân, nấm kẽ, nấm tóc, nấm móng, lang ben... tuy nhiên trong phạm vi bài viết này chỉ đề cập đến những vấn đề cơ bản về bệnh nấm thân  (hắc lào), nấm kẽ (nước ăn chân), nấm lang ben là các bệnh dễ có nguy cơ bùng phát trong điều kiện thời tiết nóng ẩm.
Nấm hắc lào
Đây là bệnh do vi nấm thuộc nhóm dermatophytes, hay gặp nhất là hai loại trychophyton và epidermophyton. Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi, nhưng thường gặp nhiều hơn ở tuổi thanh thiếu niên và trung niên.
Biểu hiện làm bệnh nhân khó chịu nhất là ngứa ở vùng da bị tổn thương, ngứa cả ngày lẫn đêm, ngứa nhiều hơn khi về đêm, khi đổ mồ hôi, hoặc khi thời tiết nóng bức... tổn thương cơ bản là các đám đỏ hình tròn, bầu dục hoặc đa cung, đường kính, số lượng khác nhau. Ranh giới rõ, có bờ viền, bờ có mụn nước, giữa có xu hướng lành, khô, bong vẩy nhẹ, phát triển ly tâm lan dần ra ngoại vi. Bệnh có thể gặp ở bẹn, chân tay, mặt, bụng, ngực... Nếu không điều trị kịp thời bệnh sẽ lây sang những vị trí khác của cơ thể, tăng mức độ tổn thương trên da, chàm hóa hoặc dễ dàng lây sang người khác do tiếp xúc trực tiếp hoặc lây qua quần áo.
Bệnh hắc lào tuy gây nhiều khó chịu cho người bệnh nhưng chữa trị không khó. Tuy nhiên nếu dùng thuốc không đúng, thuốc quá mạnh, bôi sang cả vùng da lành, da non thì sẽ gây ra tình trạng phỏng, chảy nước vùng bôi thuốc, thậm chí nếu dùng theo lời mách bảo không đúng còn gây nhiễm khuẩn, sưng đau.
Nguyên tắc điều trị
Phát hiện sớm, điều trị sớm, tránh lây lan trong tập thể.  Điều trị liên tục, đủ thời gian, đúng phác đồ. Không cào gãi, chà sát; kết hợp vệ sinh phòng bệnh ngoài da với tắm giặt, phơi nắng chăn màn, quần áo; kết hợp điều trị tại chỗ với điều trị toàn thân.
Những loại thuốc cổ điển như ASA, BSI... cũng có tác dụng tốt nhưng gây lột da nhiều, đau rát, có thể làm sạm da. Trong tuần 1: bôi BSI 2% hai lần sáng, chiều; sang tuần 2: sáng bôi BSI 2%; chiều bôi mỡ Benzosali; từ tuần 3: bôi mỡ Benzosali 1lần / ngày đến khi mịn da.
Hiện nay đã có những loại thuốc mới, có thể bôi hoặc uống. Thuốc bôi như ketoconazol, miconazol, clotrimazol... Những thuốc này có ưu điểm là không có màu, mùi thơm, không gây lột da, không sưng đau nhưng cũng có thể gây ra những dị ứng nhẹ. Những dị ứng này sẽ hết khi ngừng dùng thuốc.
Trong trường hợp bệnh tái phát nhiều lần có thể phải dùng thuốc chống nấm dạng uống. Thuốc cổ điển được sử dụng là Griseofulvin: thuốc được dùng trong nấm da mạn tính, tái phát dai dẳng điều trị bằng phác đồ thông thường không hết, hoặc nấm móng, nấm tóc, nấm da do chủng Tricophyton rubrum; thuốc không được dùng cho phụ nữ có thai, bệnh gan thận, người già, trẻ em, làm việc trên cao, người vận hành máy móc.
Hiện nay có thể dùng thuốc chống nấm thuộc nhóm azol như ketoconazol, fluconazol.
Tuy nhiên việc dùng thuốc gì và liều lượng như thế nào cần phải được thầy thuốc chuyên khoa da liễu khám và chỉ định, nếu tự ý dùng có thể sẽ xảy ra những tác dụng phụ nguy hiểm.
Nguyên nhân gây ra bệnh hắc lào là do sống trong môi trường không vệ sinh, người ra nhiều mồ hôi mà ít tắm giặt; bơi lội trong vùng nước bẩn. Chính vì vậy việc phòng bệnh phải bắt đầu bằng lối sống vệ sinh sạch sẽ, tắm gội và giặt giũ quần áo, chăn màn thường xuyên. Những người đang bị bệnh, bên cạnh việc dùng thuốc tại chỗ phải diệt nấm ở những vật dụng cá nhân như quần áo, chăn màn... bằng cách luộc ở nước sôi 100oC trong vòng 15 phút. Đối với người lành không mang bệnh không nên mặc quần áo chung với người khác, tránh làm việc nơi ẩm ướt, nếu ra mồ hôi nhiều cần phải thường xuyên tắm giặt và giữ khô những vùng da nếp như háng, nách, bẹn. Khi mắc bệnh phải đi khám để được hướng dẫn chữa trị đúng.

 Tổn thương da do nấm
Nấm kẽ
Căn nguyên của bệnh là do vi nấm epidermophyton, nấm trichophyton hay còn do nấm candida albicans. Bệnh bắt đầu ở giữa kẽ ngón chân thứ 3 và thứ 4. Kẽ ngón có hiện tượng bong xước da, màu hơi vàng, chảy dịch, có thể xuất hiện mụn nước. Bệnh thường gặp ở những người do nghề nghiệp phải tiếp xúc nước nhiều giờ liên tục trong nhiều ngày như nông dân, người làm vệ sinh cống rãnh, vận động viên bơi lội... nên trong dân gian hay gọi là nước ăn chân, tuy nhiên điều cần chú ý, nếu căn nguyên do nấm thì không nguy hiểm, nhưng nếu căn nguyên do nhiễm khuẩn mà bệnh nhân chủ quan không đi khám có thể dẫn tới nhiễm khuẩn toàn thân.
Về điều trị, thường sử dụng ketoconazol hoặc miconazol bôi tại chỗ, ngoài ra những người thường xuyên phải dầm trong nước bẩn, cần rửa chân bằng nước muối loãng, nước lá trầu không hay nước chè… sau đó lau thật khô mới được đi giày, tất. Bên cạnh đó, cần thường xuyên dùng dung dịch cồn iốt nồng độ thấp hoặc các loại bột có tác dụng diệt nấm ở bàn chân và kẽ ngón chân.
Nấm lang ben
Trong điều trị các bệnh nấm da việc dùng thuốc gì và liều lượng như thế nào cần phải được thầy thuốc chuyên khoa da liễu khám và chỉ định, nếu tự ý dùng có thể sẽ xảy ra những tác dụng phụ nguy hiểm.
Thuộc nhóm bệnh nấm gây bệnh ở lớp sừng. Tác nhân gây bệnh là malazzesia furfur  gồm có 2 loại Pityrosporum orbiculare  thâm nhập vào lớp sừng  và các lỗ chân lông và Pityrosporum ovale gây bệnh trên da đầu. Bệnh gặp ở ngư­ời nhiều mồ hôi và có thay đổi về thành phần hoá học của mồ hôi.
Bệnh bắt đầu bằng các chấm hồng nâu, hoặc trắng ở lỗ chân lông. Các chấm lớn dần lan rộng và liên kết với nhau, bờ nham nhở vòng vèo. Bề mặt tổn th­ương có vẩy da nhỏ cạo bong ra dễ dàng, gọi là dấu hiệu vỏ bào. Th­ương tổn không đau không ngứa hoặc ngứa ít lúc ra mồ hôi. Vị trí th­ường gặp ở ngực, lư­ng, cổ, bụng, vùng nếp gấp đôi khi có thể thấy ở da đầu, tay chân. Bệnh thư­ờng hay tái phát. Sau khi khỏi để lại đám mất màu khá lâu trông giống như­ bị bạch biến. Bệnh thư­ờng gặp ở n­ước nhiệt đới nóng ẩm.
Bệnh dễ điều trị nhưng hay tái phát. Tại chỗ có thể bôi các thuốc làm bong vẩy và diệt nấm như dung dịch ASA, cồn iode salicyle 2%, mỡ salicyle 3-5%. Tốt nhất nếu có điều kiện nên sử dụng các thuốc chống nấm mới thuộc nhóm nhân azole sẽ tốt hơn như kem ketoconazol hoặc fluconazol bôi 2 lần một ngày. Các trường hợp nặng có thể kết hợp với uống thuốc chống nấm toàn thân.
Lưu ý khi sử dụng thuốc chống nấm
Glyseofulvin là thuốc ít hấp thu qua đường tiêu hoá. Hấp thu thuốc qua đường tiêu hóa tăng lên khi uống trong hoặc sau các bữa ăn có nhiều chất béo. Phân bố nhiều ở da, tóc, móng, gan, mô mỡ và cơ xương. Tích luỹ nhiều trong các tế bào tiền thân keratin và có ái lực cao với mô nhiễm bệnh. Thuốc được chỉ định: điều trị các loại nấm da, tóc và móng nhạy cảm. Tác dụng không mong muốn: thường gặp là nhức đầu, chán ăn, buồn nôn, ban da, rối loạn cảm giác, viêm dây thần kinh ngoại biên, ngủ gà, chóng mặt, giảm bạch cầu. Do đó thuốc chống chỉ định khi người dùng có rối loạn chuyển hoá porphyrin, suy gan.
Ngược lại, ketoconazole lại là thuốc hấp thu được qua đường uống, tốt nhất ở pH acid (tức là khi đói). Thuốc phân bố vào các mô mềm, da, gân và các dịch như nước bọt, dịch khớp, mật, nước tiểu. Thuốc qua nhau thai và sữa mẹ nhưng không qua được hàng rào máu não. Thuốc được chỉ định trong điều trị các bệnh do nhiễm nấm nhạy cảm ở da, tóc, móng, đường tiêu hoá và nội tạng. Dự phòng và trị nấm ở người suy giảm miễn dịch và viêm da do tăng tiết bã nhờn. Nhưng tác dụng không mong muốn khi dùng (tùy theo thời gian và liều sử dụng) có thể gặp là buồn nôn, nôn, táo bón, đầy hơi, tiêu chảy, chảy máu tiêu hoá; thiểu năng tuyến thượng thận, gây chứng vú to ở nam giới và giảm tình dục; có thể gặp nhức đầu, chóng mặt, kích động hoặc ngủ gà, viêm da, phát ban, mày đay, tăng enzym gan.

Fluconazol hấp thu tốt qua đường tiêu hóa, không bị ảnh hưởng bới thức ăn và pH dạ dày. Phân bố tốt vào dịch cơ thể kể cả dịch não tủy, thải trừ chủ yếu qua nước tiểu. Thuốc có tác dụng tốt với hầu hết các chủng Candida kể cả nhiễm nấm ở giai đoạn cuối của bệnh nhân AIDS đã kháng thuốc trị nấm khác. Do đó thuốc được chỉ định sử dụng trong các trường hợp nhiễm nấm màng não do Cryptococcus, nhiễm nấm Candida thực quản ở bệnh nhân AIDS. Khi dùng thuốc cũng có thể gặp tăng men gan, ban da, buồn nôn, đau bụng...

(SKDS) -  Mùa hè nắng nóng, mưa giông thất thường tạo điều kiện rất thuận lợi cho các loại nấm gây bệnh phát triển. Nhưng mùa hè lại là mùa du lịch, nghỉ mát nên bạn cần phải đề phòng các bệnh nấm da vì khi đi du lịch, dã ngoại, tắm biển, da của bạn dễ bị nhiễm nấm và mắc bệnh.

Nấm thường lây trực tiếp
Các loại bệnh nấm da thường lây trực tiếp khi da của bạn tiếp xúc với bào tử nấm, sợi nấm trong thiên nhiên, trong không khí, đất, nước hoặc từ thực vật... hoặc khi bạn tiếp xúc với súc vật bị nấm như chó, mèo, trâu, bò, dê cừu... Những yếu tố thuận lợi để bệnh lây lan là: da của bạn bị tổn thương, mồ hôi lép nhép làm bở lớp sừng, cọ sát da làm xung huyết, nhất là trong điều kiện thiếu vệ sinh, ít tắm giặt, để cho nha bào, sợi nấm bám vào da có đủ thời gian nảy nở và phát triển thành bệnh.

Ảnh minh họa (nguồn Internet)
Biểu hiện một số bệnh nấm da thường gặp
Nấm cryptococcus neoformans gây viêm da là các vết loét có ranh giới rõ, hình tròn hoặc đa cung, ở giữa màu đỏ tím, xung quanh có quầng màu hồng, dưới là dịch và mủ. Tổn thương có thể lan rộng rồi có thể hoại tử và thành vết loét nông, tiến triển mạn tính.
Nấm Actinomyces gây bệnh ở vùng cổ, mặt, ngực, bụng: tổn thương ban đầu xuất hiện một hay nhiều cục ở dưới da, thường cứng chắc, không đau, gắn với nền sâu, sau dính với mặt da trên, thường có màu hồng, dần dần thành gôm mềm, nhũn ở giữa và dò mủ. 
Nấm Candida gây bệnh nứt mép: mép đỏ, nứt và loét trợt, hay kèm theo tưa trong miệng và có thể lan ra cả mặt. Viêm các kẽ như bẹn, nách, dưới vú, khoeo, khuỷu và ngón tay, kẽ ngón chân. Tổn thương là những vết đỏ, ranh giới rõ, hơi gồ cao, có vảy, có khi có mụn nước hoặc mụn mủ. Bề mặt thương tổn đỏ và ướt, bờ không đều, nham nhở, xung quanh có một viền vảy mỏng dễ bong. Nấm còn gây rụng tóc và không mọc lại; viêm móng do Candida.
Nấm penicillium gây tổn thương ở da, ở cơ cũng có thể xuất hiện những nốt sẩn giống như u mềm lây, dạng trứng cá mụn mủ, cục, hạt, loét và có áp-xe dưới da.
Các biện pháp phòng bệnh
Khi phát hiện có một số triệu chứng của bệnh nấm da nói trên, bạn phải đi khám và điều trị ở khoa da liễu bệnh viện vì điều trị bệnh nấm cần thời gian lâu dài và sử dụng thuốc kháng nấm thích hợp.

Phòng bệnh nấm da chủ yếu là các biện pháp vệ sinh. Bạn cần tắm rửa sạch sẽ bằng nước sạch hàng ngày, dùng xà phòng có độ kiềm thích hợp với độ pH của da khoảng 4,5 - 5,5; tránh xà phòng có độ kiềm cao quá làm khô da, giảm sức chống đỡ của da. Đối với người chế biến thực phẩm, hoa quả, bia thì cần phòng nhiễm nấm men gây viêm da bằng cách đeo găng tay, chân đi ủng. Hết giờ làm việc phải rửa sạch tay chân và lau khô, chú ý ở đầu móng, nếp, kẽ ngón tay, kẽ ngón chân, thay tất hằng ngày. Khi có người bị nấm da thì nên cách ly, luộc quần áo, lộn trái quần áo khi phơi nắng. Không dùng chung quần áo, giường chiếu, chăn màn, mũ, lược, khăn quàng, giày tất.  

Thứ Năm, 3 tháng 10, 2013

(SKDS) – Việt Nam là một đất nước nhiệt đới đón nhận rất nhiều ánh sáng mặt trời, đặc biệt là vào mùa hè. Vì vậy, các bệnh da gây nên do ánh sáng mặt trời và các bệnh da nặng lên do ánh sáng mặt trời ở nước ta là khá phổ biến.
Nhóm các bệnh da có biểu hiện ngứa liên quan tới ánh sáng mặt trời vốn đã tồn tại từ rất lâu, nó ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng cuộc sống của người bệnh. Chúng tôi xin giới thiệu một vài bệnh da phổ biến hay gặp vào mùa hè.


 Tổn thương da do vết cắn của bọ chét.
Côn trùng đốt:
Mùa hè nóng ẩm là điều kiện rất tốt cho các loại côn trùng phát triển như muỗi, bọ chét... Một số bệnh nhân có hiện tượng dị ứng với chất tiết của côn trùng tại vết đốt, dẫn đến phản ứng mạnh hơn so với người bình thường. Biểu hiện là: tại vị trí vết đốt nhanh chóng xuất hiện sẩn đỏ phù nề, ngứa nhiều. Thương tổn không chỉ xuất hiện tại vết đốt mà còn lan cả sang vùng da lành với các sẩn đỏ, mụn nước nhỏ ngứa nhiều. Thương tổn thoái lui để lại dát thâm. Bệnh tái đi tái lại nhiều lần tạo nên hình ảnh tổn thương ở các vùng da hở.
Mày đay do ánh sáng: Bệnh nhân bị nổi các sẩn phù tại vùng da tiếp xúc với ánh nắng, ngứa nhiều. Tiến triển cấp tính, xuất hiện nhanh và thoái lui nhanh khi bệnh nhân đi vào nơi bóng mát.
 Sẩn ngứa do ánh sáng: Ở những vùng da tiếp xúc với ánh nắng như mặt duỗi cẳng tay, cẳng chân, mu tay, mu chân, mặt, tam giác cổ áo... xuất hiện các sẩn chắc, dày sừng, ngứa nhiều. Bệnh nặng lên vào mùa hè và thoái lui vào mùa thu, mùa xuân
 Mày đay do ánh sáng thường xuất hiện ở vùng da tiếp xúc nhiều với ánh nắng.
Điều trị và phòng bệnh
Loại bỏ căn nguyên gây bệnh: Sử dụng thuốc diệt côn trùng, đi ngủ nằm màn (trong trường hợp bị côn trùng đốt); tránh tiếp xúc trực tiếp với ánh nắng, sử dụng các loại kem chống nắng (nếu bệnh nhân bị mày đay ánh nắng hoặc sẩn ngứa do ánh nắng), mặc quần áo dài tránh bị côn trùng đốt.

Điều trị triệu chứng: Sử dụng corticoid bôi tại chỗ; thuốc kháng histamin uống để giảm ngứa; uống các loại vitamin: C, B; ăn nhiều hoa quả, uống nhiều nước.  

(SKDS) – Với khí hậu nắng nóng, ẩm ướt của mùa hè tạo điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn, côn trùng, ký sinh trùng phát triển... Đây cũng là cơ hội để một số bệnh da có cơ hội phát triển hơn trong mùa này.

Rôm sảy
Là một trong những bệnh da phát triển khi thời tiết nóng bức với biểu hiện nổi nhiều đốm đỏ li ti gây ngứa mạnh ở các vùng ra nhiều mồ hôi như lưng, ngực, trán, cổ... Nguyên nhân là do thời tiết nắng nóng làm giãn các mao mạch trên da, tạo điều kiện cho các vi khuẩn xâm nhập gây nên hiện tượng viêm da (hay rôm sảy) và cũng chính thời tiết nóng bức thường gây tiết mồ hôi nhiều. Nếu mồ hôi không thoát hết sẽ gây ứ đọng trong các ống bài tiết trên da, các ống này bị bụi hay chất cặn bã bịt kín gây nổi các nốt viêm.
Rôm sảy xuất hiện ở mọi đối tượng, tuy nhiên, thường xuất hiện ở trẻ nhỏ do trẻ em có làn da mỏng và nhạy cảm hơn. Đa số trẻ chỉ bị rôm sảy khi nóng, còn khi thời tiết mát mẻ, rôm tự lặn hết không gây tác hại gì. Nhưng cũng có nhiều trẻ ít được chú ý tắm rửa, mụn rôm làm trẻ ngứa, gãi nhiều làm da sây sát, bị nhiễm khuẩn thêm thành những mụn mủ và nhọt.
Bệnh chữa trị đơn giản bằng cách giữ da sạch thoáng vào các ngày hè. Kinh nghiệm dân gian dùng mướp đắng giã nát pha với nước hoặc vò nát  (giã) kinh giới, hay sài đất với nước... rồi dùng nước này để tắm có tác dụng làm sạch da. Ngoài ra, có các loại phấn thuốc, phấn rôm, thuốc bôi, nhằm duy trì độ sạch của da, cản bụi nhằm phòng ngừa rôm sảy.

 Rôm sảy nhiễm khuẩn.
Bệnh chốc
Bệnh chốc lây do liên cầu, thường gặp ở trẻ em, có khi ở cả người lớn ở vùng đầu mặt sau có thể lan ra thân mình, tay chân. Tổn thương là bọng nước vài mm, bùng nhùng sau vài giờ thành mụn mủ rồi vỡ thành chợt đỏ nông, đóng vẩy tiết vàng kiểu mật ong rồi lành. Dịch mủ chảy ra có thể lây lan ra vùng khác. Một số trường hợp có biến chứng cầu thận cấp.
Cần chấm rửa vết thương bằng dung dịch berberin 1%o, nước lá chè tươi, bôi dung dịch xanh-methylen 1% hoặc tím metin 1%, hoặc betadin. Khi thương tổn đã khô chuyển sang bôi thuốc mỡ kháng sinh như tetraxyclin, fucidin, bactroban. Uống một đợt kháng sinh (nếu cần) để bệnh nhanh khỏi và tránh những biến chứng nguy hiểm như viêm cầu thận.
Đinh nhọt
Căn nguyên do tụ cầu vàng độc tính cao gây viêm toàn bộ nang lông. Nang lông bị hoại tử tạo thành “ngòi”. Biểu hiện lâm sàng là một khối đỏ viêm sưng tấy (1-5cm đường kính), đau, ban đầu cứng, sau mềm dần hoá mủ, tạo ngòi. Sau 8-10 ngày vỡ mủ thoát ngòi rồi lành sẹo. Triệu chứng toàn thân có khi sốt, mệt mỏi nhất là khi nhọt to hoặc nhiều nhọt.
Ở giai đoạn u tấy đỏ đau còn cứng chấm cồn iod 5% (chú ý không chích nặn sớm), uống hoặc tiêm kháng sinh tuỳ mức độ. Đến khi hoá mủ hoàn toàn chích nặn mủ ngòi để nhọt mau lành. Uống kháng sinh và thay băng đến khi lành.
Cần lưu ý nhọt ở vùng cằm mép gọi là “đinh râu” rất nguy hiểm dễ gây nhiễm khuẩn huyết không được chích nặn, chấm cồn iod 3-5%. Tiêm, uống kháng sinh liều cao và theo dõi chặt chẽ.

“Hậu bối” là cụm đinh nhọt có nhiều mủ, nhiều ngòi và có quá trình hoại tử phần mềm, thường ở người già yếu, suy giảm miễn dịch, đám tổn thương có đường kính từ 5-15cm, viêm tấy đỏ, có nhiều mủ, nhiều ngòi về sau hoại tử, có nguy cơ nhiễm khuẩn huyết, cần đi khám tại bệnh viện. Dùng kháng sinh liều cao và phối hợp kháng sinh, thay băng hàng ngày.

Thứ Tư, 2 tháng 10, 2013

(SKDS) - Cùng với sự phát minh mới về kỹ thuật, ứng dụng ánh sáng trong điều trị nói chung và bệnh da nói riêng đang đem lại kết quả tốt, chi phí thấp và an toàn, ứng dụng ánh sáng tại Việt Nam cũng đã được triển khai tại các cơ sở chuyên khoa da liễu, tuy nhiên, có những trường hợp không nên sử dụng phương pháp này mà có thể thay thế bằng những biện pháp khác phù hợp với tình trạng sức khỏe cũng như tình trạng bệnh đang mắc phải.

Việc ứng dụng ánh sáng trong điều trị bệnh đã có từ rất lâu nhưng chủ yếu mới sử dụng ánh sáng mặt trời. Sau thế kỷ 19, ánh sáng tử ngoại mới được nhận biết. Hiện nay, ứng dụng ánh sáng (quang trị liệu và quang hoá trị liệu) trong điều trị bệnh da rất đa dạng như điều trị bệnh vảy nến, bạch biến, viêm da cơ địa, rụng tóc thể mảng, sẩn cục, xơ cứng bì khu trú, lichen phẳng...
Một số phương pháp điều trị bệnh da bằng ánh sáng
Điều trị bệnh da bằng ánh sáng là phương pháp sử dụng ánh sáng (chủ yếu là tia cực tím) để điều trị bệnh da, trong đó, quang trị liệu là phương pháp điều trị sử dụng ánh sáng tương tác với chất/phân tử nội sinh nhạy cảm ánh sáng; quang hóa trị liệu là phương pháp điều trị sử dụng ánh sáng tương tác với chất/phân tử ngoại sinh nhạy cảm ánh sáng; quang động lực là phương pháp sử dụng chất nhạy cảm ánh sáng, oxy và ánh sáng để gây nên phản ứng quang hóa phá hủy tế bào ung thư.

 Người mắc bệnh pemphigus có thể bị nặng lên khi chiếu tia UV.
Quang trị liệu:
Hiện nay, các phương pháp được sử dụng là UVB dải rộng, UVB dải hẹp. UVB dải rộng sử dụng tia tử ngoại bước sóng trung bình 290-320nm, chủ yếu tác động vào lớp thượng bì nhưng thường gây đỏ da nhiều, dễ có tác dụng phụ. Trong khi đó, UVB dải hẹp có bước sóng ở khoảng 300-313nm có tác dụng nhất nên việc sử dụng UVB dải hẹp được sử dụng rộng rãi hiện nay rất có hiệu quả trong điều trị bệnh vảy nến.
Quang hóa trị liệu PUVA: Phương pháp điều trị sử dụng chất nhạy cảm ánh sáng (psoralen) và tia bức xạ không ion hóa có bước sóng dài (UVA). Các dạng điều trị PUVA bao gồm uống, bôi và tắm psoralen. Cách thức và thời gian sử dụng theo chỉ định của thầy thuốc đối với mỗi bệnh nhân. Số lần chiếu trong tuần 2-3 hoặc 4 lần/tuần.
Điều trị quang động lực (photodynamic therapy): sử dụng chất nhạy cảm ánh sáng là thuốc được sử dụng ở dạng bôi tại chỗ, uống hoặc tiêm tĩnh mạch như aminolevulinic acid (ALA)... Ứng dụng điều trị trong các bệnh: dày sừng ánh nắng ở mặt và da đầu; ung thư tế bào đáy; bệnh bowen; vảy nến...
Những trường hợp nào không được điều trị bằng ánh sáng
Những phụ nữ có thai và cho con bú tuyệt đối không sử dụng điều trị bằng phương pháp PUVB. Ngoài ra, người có tiền sử bệnh bị khối u ở da, bệnh có rối loạn sửa chữa nhân (khô da sắc tố, hội chứng cockayne gây rối loạn quá trình này). Người có tiền sử bệnh được điều trị trước đó bằng tia xạ, arsenic hay người mắc bệnh lupus ban đỏ hệ thống đều không sử dụng phương pháp này.

Một số trường hợp được bác sĩ chỉ định tương đối như một số bệnh có thể bị nặng lên khi chiếu tia UV như: pemphigus...; đang điều trị thuốc ức chế miễn dịch; dày sừng ánh sáng; bệnh lý gan thận nặng; đục nhân mắt...  

Có lẽ giờ đây, khi nhắc tới bệnh ghẻ, nhiều người, nhất là những người sống ở thành phố sẽ gạt phăng vì nghĩ rằng đây là bệnh chỉ gặp ở những nơi có điều kiện dinh dưỡng và vệ sinh kém. Tuy nhiên, thực tế lại cho thấy rằng, ngay cả những thành phố lớn, bệnh ghẻ vẫn tồn tại và nhiều khi bị chẩn đoán nhầm. Do đó mà có những gia đình bị ghẻ cả nhà tro

ng suốt 2 năm trời vẫn chưa được chẩn đoán và điều trị đúng.
Cái ghẻ xâm nhập qua da gây bệnh
Căn nguyên gây bệnh ghẻ là một loại ký sinh trùng có tên sarcoptes scabiei, có nơi còn gọi là con mạt ngứa (itch mite). Con cái có kích thước từ 0.3-0.5mm. Cái ghẻ xâm nhập vào đường biểu bì da, đào hầm và đẻ trứng. Chúng đẻ từ 2-3 trứng/ngày và đẻ liên tục trong 4-6 tuần liền. Trứng nở thành ấu trùng và phát triển thành con trưởng thành chỉ trong vòng 3-4 ngày. Lây bệnh ghẻ là do tiếp xúc trực tiếp với người bị ghẻ, nằm chung giường, mặc chung quần áo, dùng chung khăn tắm. Cái ghẻ có thể sống ngoài cơ thể được 2-3 ngày, điều này rất có ý nghĩa trong việc tư vấn điều trị.

 Tổn thương do ghẻ có thể nhầm lẫn với eczema.
Ngứa ghẻ có thể nhầm lẫn với eczema
Người bị nhiễm ký sinh trùng ghẻ lần đầu tiên trong vòng 2 tuần đầu hoàn toàn chưa có biểu hiện ngứa do mới bị ghẻ xâm nhập nên chưa có sự phản ứng lại (hay là sự nhạy cảm). Việc chẩn đoán ghẻ rất dễ, ai đó từng bị ghẻ đều có thể nhận ra được, nhưng đôi khi cũng bị nhầm lẫn tại các phòng khám chuyên khoa vì ghẻ lâu ngày tạo thành eczema hóa hoặc bội nhiễm hoặc ghẻ vảy. Dựa vào triệu chứng bệnh ngứa nhiều về đêm, ngứa tăng khi trời nóng, khi lao động, chơi thể thao. Mụn nước ở vị trí đặc hiệu, kẽ ngón tay, lằn chỉ cổ tay, nếp gấp bàn tay, vùng thắt lưng, cạp quần, bẹn,  đùi, sinh dục, nách, núm vú ở phụ nữ. Điều đặc biệt là ghẻ không thấy ở mặt, đầu và 1/3 trên lưng. Đối với trẻ em dưới 2 tuổi, ghẻ có thể bị toàn thân. Có thể dùng kính lúp soi bắt được cái ghẻ nằm ở cuối đường hầm trong da.
Chữa ghẻ bằng cả đông y và tây y
Đông y thường dùng lá cây ba gạc, lá đào đun nước tắm, nhựa cây máu chó bôi tại chỗ. Tắm nước muối, tắm biển… Tây y có thể dùng một trong những loại thuốc sau: D.E.P.(dietyl phtalat); benzyl benzoat (ascabiol, scabitox, zylate); eurax (crotamintan); permethrin cream 5% (elimite); lindane (gamma–benzen hexachlorid, kwell).
Ngoài ra, cần đặc biệt chú ý, khi điều trị ghẻ, phải điều trị cho cả những người sống chung trong gia đình hoặc trong cùng đơn vị, ký túc xá sinh viên, tẩy uế quần áo, ga gối. Trong mùa hè, phơi quần, áo, ga, gối 3-4 nắng. Quần áo giặt để 1 tuần sau mặc lại. Do bệnh ghẻ có thể xuất hiện ở bất kỳ địa phương nào, kể cả nông thôn hay thành thị nên nếu nghi ngờ mắc bệnh, không nên chủ quan để bệnh kéo dài dai dẳng.

Thứ Ba, 1 tháng 10, 2013

Nước ta nằm trong khu vực nhiệt đới, lại là nước nông nghiệp, người dân phải tiếp xúc nhiều với bùn đất, ẩm ướt kéo dài... Tất cả những yếu tố đó là điều kiện thuận lợi cho các loại vi sinh vật như vi nấm, vi khuẩn... phát triển để gây bệnh, đặc biệt là  một số bệnh ở da.

Đặc biệt, thời tiết đang chuyển sang nắng nóng, nên việc nhận biết điều trị là việc làm hết sức cần thiết, trong đó phải kể đến các bệnh như nấm da, viêm kẽ, viêm nang lông, chốc, viêm nang lông, rôm sảy….
Nấm da: một trong những vấn đề y khoa phổ biến ở nước ta, bệnh biểu hiện dưới rất nhiều dạng khác nhau, các thể bệnh thường xuất hiện ở nhiều nơi như da, móng, niêm mạc và tóc, nấm da thường gặp nhất là hắc lào, lang ben, và nấm kẽ chân.

Hắc lào: hay còn gọi là lác có tên khoa học là Dermatophyte do 3 loại nấm Trichophyton, Epidermophyton và Michosporum gây nên, sự khác biệt giữa 3 loại nấm này chỉ phân biệt được ở phòng thí nghiệm mà thôi. Vị trí thường gặp nhất là ở bẹn (nấm bẹn), ở thân (nấm thân) và ở chân người ta gọi là nấm chân. Các loại nấm này đều có chung triệu chứng là ngứa sau đó xuất hiện mảng đỏ gọi là mảng hồng ban, có hình tròn nên dân gian gọi là lác đồng tiền, đôi khi hình bầu dục, có bờ viền rõ rệt, trên bờ viền có mụn nước nhỏ, mảng đỏ lớn dần, ở vùng trung tâm có xu hướng lành, da sậm màu hơn và tróc vảy nhẹ. Bệnh ngứa nhiều, nhất là về đêm, bệnh không điều trị kịp thời sẽ lây lan ra nhiều vị trí khác. Về điều trị, thường được dùng thuốc thoa tại chỗ như Canesten dạng kem, thoa 2 - 3 lần/ngày, thoa trong 2 - 4 tuần hoặc Nizoral dạng kem thoa 1 lần /ngày, thoa trong 3 - 4 tuần. Kết hợp với thuốc uống như Itraconazol với biệt dược là Canditral hay Sporal, uống với liều 100mg (1 viên) x 2 viên, uống một lần trong ngày, uống trong 7 ngày, hoặc 1 viên uống trong 15 ngày. Về phòng bệnh, luôn giữ da khô sạch, tránh gãi gây trầy xước trên da, không nên mặc quần áo ẩm ướt, quá chật, quần áo, khăn tắm phải giặt, phơi nắng, ủi kỹ ở mặt trong, khi phát hiện bệnh phải được điều trị sớm, đúng thuốc, đủ thời gian và điều trị cùng lúc cho cả người trong gia đình và tập thể, để dập tắt nguồn lây, không dùng quần áo, khăn lau chung  với người bệnh. Lang ben: một bệnh do vi nấm gây nên, có tên khoa học là Pityrosporum Orbiculaire mà trước kia người ta gọi là Malassezia furfur. Bệnh có triệu chứng cơ bản là dát đổi màu thường khởi đầu ở nang lông, từ từ lan ra thành mảng, giới hạn rõ, có thể hình hình đa cung hay ngoằn ngoèo, do biểu hiện chủ yếu là đổi màu của da nên còn gọi là nấm đổi màu (Tinea Versicolor). Sự thay đổi màu sắc này là do Pityrosporum Obiculaire tiết ra acid Azelaic, làm ức chế quá trình tổng hợp hắc tố melanin từ Tyrosin, dẫn đến đổi màu ở da; có màu trắng, hồng hoặc nâu đen, tùy thuộc vào vị trí và độ dày của da. Màu trắng hoặc hồng thường gặp ở vùng phơi bày ánh sáng như  ở mặt, ngực, chi trên… Màu đen hay nâu thường phân bố vùng da non hoặc vùng kín ở nách - đùi. Ngoài dát đổi màu còn có vảy mịn, nhẹ, cạo tróc như vỏ bào nên còn gọi dấu hiệu mụn bào, người bị lang ben thường không ngứa hoặc ngứa ít và có  cảm giác như châm chít khi ra mồ hôi.
Lang ben rất dễ điều trị nhưng hay tái phát, có thể do điều trị không đúng thuốc, không đủ liều hoặc thoa thuốc còn sót trong những vùng nhiễm nấm nhưng chưa đổi màu, hoặc không chú ý nguồn tiếp tục lây như quần áo đã nhiễm nấm trước đó hay người thân trong nhà, cũng cần nên nhớ rằng thuốc Griseofulvin ngày nay hầu như không có tác dụng với lang ben. Thuốc uống  dùng Itraconazol 100mg x 2 viên uống 1 lần /ngày, uống trong 7 ngày, hoặc Ketoconazol (Nizoral) 200mg x 1 viên/uống trong 10 ngày, uống trong lúc ăn. Thuốc thoa thường Canesten dạng kem thoa 2 lần/ngày thoa trong 4 tuần, hoặc Lamisil 1% dạng kem thoa 2 lần /ngày thoa trong 2 tuần.Về phòng bệnh, tắm Selsun  mỗi tuần 1 lần, mỗi tháng uống 2 viên Ketoconazol 200mg, uống trong 6 tháng, không dùng quần áo, khăn lau chung với người bệnh.
Bệnh viêm kẽ ngón chân: do nấm thường do vi nấm hạt men Candida gây nên, do môi trường ở kẽ ngón chân ẩm thấp làm vi nấm phát sinh, bệnh phát sinh do mang vớ kín ẩm suốt ngày, dẫn đến viêm kẽ do da ẩm thấp, mắc mưa càng làm bệnh nặng thêm. Candida là vi nấm hạt men sống ký sinh ở da người, không gây bệnh, gặp điều kiện thuận tiện như môi trường ẩm ướt, nấm sẽ phát triển và gây bệnh, nhất là ở vị trí kẽ ngón chân thứ tư và năm. Bệnh có biểu hiện  da trở nên đỏ hồng, rướm máu, quanh rìa da bị mủn  có màu trắng, ít ngứa, có cảm giác hơi đau rát, nếu tổn thương kéo dài gây ngứa và dịch tiết có mùi hôi rất khó chịu.  Về phòng bệnh,  cần đảm bảo vệ sinh chân, không đi giày- vớ trong thời gian dài nhất là khi giày hay vớ ẩm ướt, rửa chân sạch bằng xà phòng và lau khô chân sau khi tiếp xúc với nước bẩn, nước cống rãnh, dùng thuốc khử có iod như Betadine, nước muối, các loại bột diệt nấm ở bàn chân và kẽ ngón chân, luôn giữ cho kẽ ngón chân khô ráo, tránh đi mưa.
Bệnh ngoài da thường không nặng nhưng gây khó chịu cho người bệnh, bệnh thường diễn tiến nhanh trong môi trường ẩm ướt và bội nhiễm nặng do thiếu vệ sinh; cho nên cần giữ cơ thể sạch sẽ, khô, tránh ẩm ướt, mặc quần áo rộng, thoáng, tránh tạo môi trường ẩm khiến cho vi khuẩn, vi nấm phát triển là việc làm cần thiết để phòng các bệnh như phần trên khi vào mùa nắng nóng.
Chốc: bệnh nhiễm trùng da, người lớn thường ít gặp hơn trẻ em,  triệu chứng của bệnh  là mụn nước hay bóng nước có quầng viêm đỏ xung quanh sau thành mụn mủ, vỡ ra và khô đi, đóng mày. Phòng bệnh bằng cách tăng cường sức đề kháng bằng chế độ dinh dưỡng hợp lý và giữ vệ sinh cơ thể, tránh mặc đồ ẩm ướt nhất là với trẻ em.
Viêm nang lông: bình thường trên da của chúng ta có nhiều lông, mọc lên từ các nang lông nằm sâu  dưới  da, các nang lông có nhiệm vụ sinh ra  lông, tuyến mồ hôi trong nang lông tiết mồ hôi và chất bã giúp bài tiết và điều hòa thân nhiệt. Khi nắng nóng, chất bã được bài tiết quá nhiều kết hợp với nhiễm trùng sẽ gây viêm nang lông. Về triệu chứng, viêm nang lông là một bệnh khá đa dạng và có nhiều nguyên nhân gây ra, thường gặp nhất là do vi trùng, tuổi phổ biến nhất ở lứa tuổi thanh niên, thường biểu hiện bằng tổn thương da với nốt sẩn nhỏ nhô lên từ các nang lông, lúc đầu có màu hồng, về sau mãn tính thường có màu hơi thâm đen, mỗi nang lông là một sẩn.
Bệnh thường không khỏi tự nhiên, nếu được điều trị bệnh sẽ dần dần khỏi, các sẩn biến mất, da bớt đỏ và sạch trở lại nhưng bệnh cũng rất dễ tái phát. Về điều trị, tại chỗ thường dùng thuốc thoa như Fucidine 2% hay Dalacin T, thoa ngày 2 lần sáng và chiều. Thuốc uống có thể dùng một trong các thuốc kháng sinh chống nhiễm khuẩn như: Clindamycine, Minoxycycline… Nếu người bệnh kèm theo ngứa thì dùng thuốc chống ngứa như: Loratadine, Chlorpheniramine, Cetirizine… Ngày nay người ta còn điều trị viêm nang lông bằng công nghệ ánh sáng 3G nhằm hấp thụ melanin để giảm thâm đen, công nghệ này là sự kết hợp giữa sóng IPL và RF, có khả năng hấp thụ hắc tố trên da, giúp da sáng hơn, khắc phục tình trạng vết thâm và sẹo .
Rôm sảy: bệnh rất thường gặp vào mùa hè, với thời tiết nắng nóng, do sự tăng tiết và ứ đọng mồ hôi, tạo nên phản ứng viêm nhiễm da, bệnh thường gặp ở trẻ em, với biểu hiện là những mụn nước nhỏ li ti, khu trú chủ yếu ở trán, cổ, ngực, lưng, các mụn nước vài ngày sau vỡ ra, để lại các vảy nhỏ trên da; rôm sảy xuất hiện nhiều ở các trẻ em không được tắm rửa hằng ngày, hoặc quấn tã lót quá nhiều, hoặc ở những trẻ mới sinh được người nhà có thói quen cho nằm than, hay nằm lửa, bệnh rất dễ gây một số biến chứng như viêm da nhiễm trùng, mưng mủ. Để khắc phục tình trạng này, cần tạo môi trường thoáng mát, sạch sẽ, khô ráo, tắm rửa đều đặn và hợp lý, có thể tắm với dung dịch Lactacyd BB, hoặc bôi các chế phẩm làm dịu da, trong trường hợp ngứa nhiều, có thể sử dụng thuốc kháng dị ứng thích hợp, nếu có viêm nhiễm, mưng mủ, cần đưa bệnh nhân đến khám bác sĩ chuyên khoa.

Chấy rận và ghẻ là những ký sinh trùng gây bệnh ngoài da, gây ngứa. Bệnh có thể xuất hiện thành ổ dịch ở các đơn vị tập thể, nhà ở chật hẹp, thiếu vệ sinh…

Do ngứa nên người bệnh phải gãi sẽ gây nhiễm khuẩn thứ phát. Nếu bệnh kéo dài, ngứa gãi gây mất ngủ dẫn đến suy nh­ược thần kinh…

Benzyl benzoate là một thuốc được dùng để bôi ngoài, có hiệu quả trong điều trị ghẻ, diệt chấy rận. Đối với dạng nhũ dịch benzyl benzoat 25% có thể bôi lên tất cả các vùng da (trừ da mặt). Hay nói cách khác là không bôi thuốc lên da mặt.

 Cấu trúc phân tử B benzyl benzoat.
Sau khi tắm bằng nước nóng, lau khô vùng da cần bôi thuốc. Sau khi bôi thuốc để nguyên trong 24 giờ, sau đó bôi tiếp một lần nữa mà không cần tắm và để thuốc tác dụng tổng cộng là 48 giờ rồi mới tắm rửa sạch thuốc. Tất cả cái ghẻ sẽ bị tiêu diệt. Do benzyl benzoat là một chất kích ứng da mạnh nên không được dùng lại thuốc này thêm mặc dù sau đó chứng ngứa có thể còn tồn tại đến 3 tuần.
Khi dùng cho trẻ nhỏ và trẻ em nên hòa loãng thuốc để tránh kích ứng da (thường hòa loãng 60 hoặc 90 ml thuốc benzyl benzoat 25% thành 120 hoặc 180 ml bằng nước sạch), lắc đều trước khi dùng.
Tránh để thuốc tiếp xúc với mắt và các màng nhầy. Khi lỡ uống, benzyl benzoat có thể gây kích thích hệ thần kinh trung ương và co giật. Chú ý không bôi trên một diện tích da quá rộng. Bảo quản thuốc ở nhiệt độ không quá 40oC trong bao bì sạch, kín, tránh ánh sáng và để xa tầm tay trẻ em.
Thuốc có thể gây kích ứng da và phản ứng quá mẫn ở một số người bệnh (đặc biệt đối với những cơ địa dễ dị ứng) hoặc gây viêm da thể bọng nước... Cần ngừng bôi thuốc khi có các phản ứng dị ứng.
Có thể dùng các thuốc ghẻ khác thay thế benzyl benzoat để tránh kích ứng da. Những thuốc được dùng phổ biến nhất là lindan (gamma benzen hexaclorid), mỡ permethrin 5% và mỡ lưu huỳnh (thường dùng loại lưu huỳnh kết tủa 5 - 9% trong vaselin). Tuy nhiên, không nên dùng lindan cho trẻ nhỏ. Không nên dùng cho người mang thai và thận trọng khi dùng cho người bệnh có vùng da bị tổn thương rộng, vì làm tăng độ hấp thu qua da và tất nhiên dẫn đến nguy cơ ngộ độc ở trẻ em (rối loạn thần kinh trung ương, co giật, suy hô hấp). 
Design by Hao Tran | Blogger Theme by Sức khỏe sinh sản -