Thứ Tư, 18 tháng 9, 2013

Da người là “đất sống” của nhiều loài vi khuẩn, thậm chí  cả nấm và kí sinh trùng. Loại vi khuẩn thường gặp nhất là tụ cầu (staphylococcus) và liên cầu (streptococcus). Bình thường các vi khuẩn này không gây bệnh ở da, nhưng khi gặp điều kiện thuận lợi như cơ thể bị suy yếu, vệ sinh da kém, môi trường nóng nực, ngứa gãi, bị chấn thương ở da, bị bệnh đái tháo đường v.v... thì các vi khuẩn này sẽ tăng độc tính và gây ra tình trạng nhiễm trùng trên da.

 Bệnh chốc                   
Chốc là bệnh nhiễm trùng nông trên da biểu hiện bằng các dát đỏ, bọng nước. Bệnh do liên cầu, tụ cầu hoặc phối hợp cả hai gây nên, gặp ở mọi lứa tuổi, nhưng 90% trường hợp là ở lứa tuổi nhà trẻ, mẫu giáo.
Biểu hiện bệnh bắt đầu là các dát đỏ xung huyết trên da, nhanh chóng tạo thành bọng nước nhăn nheo, xung quanh có quầng đỏ. Sau vài giờ từ đáy bọng nước xuất hiện mủ đục từ thấp lên cao,  dễ dàng dập vỡ, đóng vảy tiết màu vàng nâu giống màu mật ong. Ở da đầu, vảy tiết làm tóc bết lại. Khoảng 7-10 ngày sau, vảy tiết bong đi để lại dát hồng hoặc dát thâm, tồn tại một thời gian ngắn, mất đi không để lại sẹo. Vị trí thường gặp ở  mặt, nhưng có thể bất kì chỗ nào kể cả lòng bàn tay, chân, hiếm khi thấy ở niêm mạc nhưng cũng có thể có.
Toàn thân:  rất hiếm khi sốt, trừ trường hợp thương tổn chốc toàn thân hoặc có biến chứng. Bệnh nhân có thể ngứa gãi làm thương tổn lan rộng, chàm hóa hoặc lan sang vùng da khác.
Căn nguyên, bệnh sinh
Từ các sang chấn nhỏ trên da, vi khuẩn sẽ xâm nhập qua da vào lớp sừng và lớp gai, nhân lên, rồi tiết độc tố làm tan rã các cầu nối liên kết giữa các tế bào gai, huyết thanh tụ lại tạo thành bọng nước dư­ới lớp sừng.
Các yếu tố như tuổi nhỏ, thời tiết nóng ẩm, mùa hè, nơi ở chật chội, vệ sinh kém là những điều kiện thuận lợi cho bệnh phát triển. Ngoài ra, các yếu tố  như bị chấy, rận, ghẻ, herpes, côn trùng cắn, viêm da cơ địa... cũng làm cho bệnh dễ phát sinh và phát triển.
Tiến triển
Chốc là bệnh lành tính. Nếu phát hiện và điều trị tích cực thì khoảng 7-10 ngày là khỏi, ít có tái phát và biến chứng, nhưng nhiều bệnh có thể tiến triển dài hơn và có các biến chứng từ nhẹ đến nặng như chàm hóa, viêm phổi, cầu thận cấp, chốc loét, nhiễm trùng huyết....
Điều trị
- Tại chỗ: Làm bong vảy tiết bằng đắp dung dịch NaCl 9 phần ngh hay thuốc tím 1/10.000 hoặc dung dịch Jarish. Nếu vảy dày dùng mỡ kháng sinh. Khi vảy tiết đã bong đi, chấm vào tổn thương dung dịch sát khuẩn có màu như  milian hoặc castellani.
- Toàn thân: dùng kháng sinh nhóm β-lactam, cephalosporine, macrolid, quinolone, kháng sinh penicilline bán tổng hợp khi  thương tổn lan rộng, nặng, dai dẳng và có nguy cơ biến chứng viêm cầu thận cấp, chốc loét, nhiễm trùng huyết....
Phòng bệnh
Tắm rửa vệ sinh ngoài da, cắt tóc, cắt móng tay. Chăm sóc cho trẻ nhỏ, nhất là sau khi mắc các bệnh do virus hoặc sởi. Tránh ở lâu những nơi ẩm thấp, thiếu ánh sáng. Điều trị sớm và tích cực, tránh chà xát, gãi nhiều gây biến chứng.

 Khám bệnh ngoài da cho bệnh nhân.
Bệnh viêm nang lông
Là phản ứng viêm của một hoặc nhiều nang lông ở bất kì vị trí nào trên cơ thể, trừ vùng bán niêm mạc và lòng bàn tay, bàn chân. Nếu viêm nang lông xảy ra ở những vùng có lông tóc dài như  đầu, râu, lông nách, lông mu thì gọi là viêm chân tóc hay sycosis. Nếu thương tổn ở những vùng lông nhẵn thì gọi là viêm nang lông.
Biểu hiện
Viêm nang lông có thể biểu hiện lâm sàng khác nhau tùy theo vị trí tổn thương nang lông nông hay sâu.
- Viêm nang lông nông, viêm cổ nang lông: mụn mủ nhỏ như hạt kê rất nông ở lỗ chân lông, màu vàng nhạt, dễ vỡ để lại vảy mủ hoặc vảy lẫn máu. Bệnh diễn biến thành từng đợt và tự lành sau vài ngày, không để lại sẹo. Vị trí điển hình là ở mặt, da đầu, lông mu, lông nách, nếp bẹn, hai cẳng chân.
- Viêm nang lông sâu: viêm xâm lấn vào tận cấu trúc nang, khi khỏi có thể tạo thành sẹo lồi hay sẹo teo da, rụng tóc.
Căn nguyên
Phần lớn viêm nang lông là do tụ cầu vàng ký sinh ở trên da, trên các lỗ chân lông, nhưng có thể do một số vi khuẩn khác như vi khuẩn gram âm, Enterobacter klebsiella, Proteus, Pseudomonas aeruginosa hay do nấm men (Candida hay pityrosporum), nấm sợi hoặc virus.
Điều trị
- Tại chỗ: Không được nặn mụn mủ, nên chấm tổn thương bằng dung dịch cồn iot 5% hoặc dung dịch betadin.
- Toàn thân:  Có thể uống kháng sinh nhóm β-lactam, cephalosporine, macrolid.
Phòng bệnh
- Loại bỏ chấn thương tại chỗ bằng cách không gãi, không chà xát; không mặc quần áo quá chật; tránh xây xước khi cạo râu...
- Điều trị các bệnh phối hợp như đái tháo đường, giảm miễn dịch....
- Rửa tay thường xuyên, giặt quần áo bằng xà phòng tiệt khuẩn.
- Vệ sinh đúng cách để dự phòng tổn thương lan tỏa và tồn lưu. Nếu tổn thương ở vùng râu thì phải thay dao cạo và cách cạo râu.
Nhọt
Tắm rửa vệ sinh ngoài da, cắt tóc, cắt móng tay. Chăm sóc cho trẻ nhỏ, nhất là sau khi mắc các bệnh do virus hoặc sởi. Tránh ở lâu những nơi ẩm thấp, thiếu ánh sáng.
Là thuật ngữ dùng để chỉ khi viêm nang lông sâu, viêm quanh nang lông và hoại tử vùng trung tâm nang lông tạo nên ngòi màu vàng. Nhọt rất thường gặp và có thể xuất hiện bất cứ trên vùng nang lông nào của cơ thể, tuy nhiên vị trí thường gặp nhất là mặt, cổ, hố nách, mông, đùi và những vùng da băng ẩm kéo dài.
Biểu hiện lâm sàng
Nhọt có thể biểu hiện lâm sàng bằng nhiều hình thái khác nhau và tùy theo từng hình thái mà bệnh nhân có triệu chứng toàn thân hay không.
- Nhọt: Tổn thương ban đầu là cục cứng, đỏ, nóng, đau, khu trú ở nang lông, ở giữa có một đốm trắng còn gọi là “ngòi”. Vị trí thường gặp là vùng có lông, đặc biệt vùng cọ sát hoặc ra mồ hôi nhiều như cổ, nách, mông. Sau vài ngày nhọt trở nên mềm hơn, giảm đau và giảm sưng nóng đỏ. Khi vùng trung tâm nhọt mềm hơn, màu thẫm hơn và hơi bùng nhùng (nhọt “chín”) thì nhọt sẽ vỡ mủ, “ngòi” thoát ra ngoài để lại trên nền thâm nhiễm một lỗ nhỏ, dần dần lên da non và lành sẹo.
Đa số bệnh nhân chỉ có 1 đến 2 nhọt. Tuy nhiên cũng có người có nhiều nhọt (5-7 cái).
Nhìn chung nhọt không có triệu chứng toàn thân. Những người có nhiều nhọt hoặc nhọt ở trẻ em có thể kèm theo sốt, albumin niệu.
- Nhọt cụm: là do nhiều nhọt tập trung thành đám tạo thành “tập đoàn” nhọt hay cụm nhọt. Trường hợp này tổn thương thường viêm nặng hơn, lan rộng hơn và thâm nhiễm sâu hơn. Vị trí nhọt cụm thường ở gáy, lưng, đùi. Khi cụm nhọt xuất hiện ở gáy, lưng thì được gọi là “hương sen” hoặc “hậu bối”. Bệnh nhân thường có sốt, đau đầu, mệt mỏi và rất đau, có thể có albumin niệu.
- Bệnh nhọt: là chỉ một người bị nhọt với số lượng nhiều tái đi tái lại nhiều lần hàng tháng, có khi hàng năm không khỏi.
- Đinh râu: cũng là nhọt nhưng khu trú chủ yếu ở vùng có râu và vùng “bát úp” quanh miệng, chóp mũi. Đinh râu có thể đưa đến viêm xoang tĩnh mạch hang và nhiễm trùng huyết, áp xe não, viêm nội tâm mạc cấp, viêm xương - tủy xương...  do vùng này có mạng mạch máu, mạch bạch huyết rất phong phú và liên kết với hệ thống mạch não, vì thế đây là một cấp cứu cần được phát hiện và xử trí kịp thời.
Nguyên nhân gây bệnh nhọt và các yếu tố nguy cơ
- Tác nhân chủ yếu gây ra nhọt là tụ cầu vàng (staphylococcus aureus). Tuy nhiên,  nhọt cũng có thể gây nên do các vi khuẩn khác như vi khuẩn gram âm, proteus, pseudomonas aeruginosa... hoặc nấm. 
Da bị tổn thương do chà xát, cào gãi hoặc tăng tiết mồ hôi, viêm da, nhiễm nấm là cửa ngõ thuận lợi cho việc xâm nhập của vi khuẩn gây ra nhọt.
- Những người nghiện rượu, suy dinh dưỡng, đái tháo đường, chàm cơ địa, viêm thận, suy giảm miễn dịch...là những yếu tố thuận lợi gây nhọt.
Tiến triển và tiên lượng
- Nhọt tuy là một bệnh nhiễm khuẩn nhưng nhìn chung là lành tính, bệnh sẽ khỏi trong vòng 3 ngày đến 1 tuần. Một số người nhất là những người ra mồ hôi nhiều, vệ sinh da kém hoặc có bệnh đái tháo đường, bệnh hệ thống, bệnh suy giảm miễn dịch... có thể bị nhọt tái phát nhiều lần và diễn biến phức tạp.
- Nhọt cụm, đinh râu có thể có biến chứng nặng, xảy ra bất kì lúc nào.
Điều trị
- Tại chỗ: Không được tự nặn phá nhọt khi nhọt đang ở giai đoạn viêm tấy đỏ vì có thể phá vỡ hàng rào bảo vệ tự nhiên tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập vào máu gây các biến chứng nguy hiểm.
- Khi số lượng tổn thương nhiều, lan tỏa, “hậu bối”, “đinh râu” hoặc có biểu hiện viêm mạch bạch huyết, viêm mô tế bào hay trên cơ địa người đái tháo đường, bị ở vùng mặt.... cần khám và điều trị theo hướng dẫn của thầy thuốc chuyên khoa.
Phòng bệnh
- Giữ vệ sinh cá nhân sạch sẽ: thường xuyên tắm rửa, thay quần áo lót, khăn, phơi nắng chăn đệm... Khi bị nhọt, giặt sạch đồ dùng cá nhân bằng xà phòng tiệt khuẩn với nước nóng.
- Tránh cào gãi vết thương, vết xước trên da.
- Bớt ăn ngọt, ăn đủ chất đạm, bổ sung vitamin A, C.  Loại bỏ các yếu tố thuận lợi như đái tháo đường, suy dinh dưỡng, béo phì, suy giảm miễn dịch bao gồm cả HIV/AIDS...

Có rất nhiều bệnh da gây nên bởi những biến đổi của gen, là hậu quả của sự đột biến xảy ra trong quá trình sinh trưởng. Những đột biến này nếu không được sửa chữa sẽ biểu hiện các triệu chứng trên lâm sàng và di truyền cho các thế hệ sau. Trong những năm gần đây nhờ sự tiến bộ của khoa học di truyền, người ta đã xác định được căn nguyên di truyền của nhiều bệnh da.

Bệnh da vảy cá
Biểu hiện chủ yếu của bệnh da vảy cá là da rất khô, bong vảy dày do rối loạn quá trình sừng hóa của da. Có rất nhiều thể khác nhau và mức độ nặng hay nhẹ tùy thuộc vào từng thể và kiểu di truyền.
Bệnh vảy cá thông thường (Itchyosis Vulgaris) liên quan với nhiễm sắc thể X là thể thường gặp nhất,  khoảng 1/2000 đến 1/10000 trẻ trai. Bệnh thường xuất hiện sau khi đẻ từ 3 đến 6 tháng. Tình trạng khô và bong vảy da chủ yếu ở mặt duỗi các chi và thân mình, các nếp gấp thường ít có thương tổn hoặc bình thường. Bệnh thường tăng lên về mùa đông và có xu hướng giảm dần khi trẻ lớn đến tuổi dậy thì.

Đỏ da toàn thân dạng vảy cá (Ichtyosiform erythroderma) là một thể đặc biệt của bệnh vảy cá. Bệnh di truyền theo kiểu lặn với tỉ lệ 1/10000 trẻ sơ sinh. Bệnh biểu hiện ngay sau đẻ với tình trạng da toàn thân đỏ, khô và bóng do giảm tiết mồ hôi. Trường hợp nặng trẻ có thể bị tử vong do rối loạn thân nhiệt, rối loạn nước điện giải hay nhiễm trùng. Trường hợp nhẹ có tiên lượng tốt hơn. Bệnh tiến triển giảm dần với biểu hiện da khô, nhất là về mùa đông, bong vảy da màu nâu đen và thường kết hợp với tình trạng lộn mi, biến dạng vành tai, ngón tay, ngón chân.
Ngoài ra, còn nhiều thể khác hoặc chỉ biểu hiện ngoài da hoặc kết hợp với các rối loạn khác như  chậm phát triển về trí tuệ, điếc bẩm sinh hay đục thủy tinh thể.
 Điều trị bệnh vảy cá bẩm sinh cho đến hiện nay còn gặp nhiều khó khăn, chủ yếu là sử dụng các sản phẩm chống khô da và các thuốc bong vảy da. Vitamin A axít có tác dụng tốt trong một số trường hợp. Tuy nhiên, việc sử dụng thuốc phải có chỉ định của các bác sĩ chuyên khoa.

Dày sừng lòng bàn tay bàn chân
Dày sừng lòng bàn tay bàn chân cũng là một bệnh di truyền gây rối loạn quá trình biệt hóa của các tế bào sừng ở thượng bì. Bệnh có nhiều thể khác nhau với tình trạng dày sừng khu trú hay lan tỏa tùy thuộc vào gen bị tổn thương và kiểu di truyền lặn hay di truyền trội. Biểu hiện lâm sàng là hiện tượng dày sừng lòng bàn tay bàn chân khiến bệnh nhân cầm nắm khó khăn và rất đau khi đi lại. Bệnh có thể xuất hiện sớm hay muộn trong quá trình phát triển cơ thể. Điều trị dày sừng lòng bàn tay bàn chân còn gặp nhiều khó khăn. Vitamin A axít, một loại thuốc có tác dụng điều hòa quá trình sừng hóa có tác dụng tốt.
Ly thượng bì bọng nước bẩm sinh
Ly thượng bì bọng nước bẩm sinh là nhóm bệnh di truyền, trong đó da rất dễ bị tổn thương do sang chấn gây nên các bọng nước. Có nhiều thể khác nhau tùy thuộc vào kiểu di truyền gây rối loạn quá trình biệt hóa của keratin 5, 14 và collagen VII.  Trên lâm sàng,  bệnh được chia thành hai nhóm chính: ly thượng bì loạn dưỡng (Epidermolysis dystrophica) và không loạn lưỡng (Epidermaolusis bullosa simplex). Triệu chứng của thể không loạn dưỡng là các bọng nước trong trên nền da hoàn toàn bình thường, ở vùng tỳ đè, sang chấn như lòng bàn tay, bàn chân, gối, khuỷu tay. Sau một vài ngày, các bọng nước vỡ, đóng vảy và lành không để lại sẹo. Lông tóc móng hoàn toàn bình thường. Bệnh đôi khi xuất hiện muộn khi trẻ bắt đầu biết bò hay biết đi và tiến triển giảm dần khi đến tuổi trưởng thành. 
Thể loạn dưỡng thường xuất hiện sớm ngay sau khi trẻ ra đời. Ngoài thương tổn ở da, niêm mạc miệng, hậu môn sinh dục cũng có thể có các bọng nước dễ vỡ để lại các vết trợt. Các thương tổn da khi lành bao giờ cũng để lại sẹo teo da nhăn nheo, tăng hoặc giảm sắc tố. Kèm theo, bệnh nhân có các biến dạng về móng (teo móng, mất móng), rối loạn phát triển của răng, chậm phát triển về thể chất và trí tuệ.
Điều trị bệnh chủ yếu là chăm sóc, phòng tránh nhiễm trùng.  Trong những năm gần đây, một số nghiên cứu đã chứng minh hiệu quả điều trị bệnh ly thượng bì bọng nước bẩm sinh bằng tế bào gốc. Các tế bào gốc có nguồn gốc từ tủy xương được tiêm vào cơ thể theo đường tĩnh mạch hay tiêm tại chỗ, biệt hóa thành các tế bào sừng giúp cho quá trình phục hồi lớp thượng bì bị tổn thương. Đây là một trong những hướng điều trị mà nhiều tác giả đang tập trung nghiên cứu trong thời gian tới.
Bệnh bạch tạng
Bạch tạng là một bệnh bẩm sinh di truyền lặn với tỉ lệ 1/17000 dân. Biểu hiện mất một phần hay toàn bộ sắc tố của da do thiếu hụt hoặc không có tyrosinase, một loại men tham gia vào quá trình tổng hợp melanin. Ngoài biểu hiện ở da, bệnh nhân còn có thương tổn ở mắt. Mống mắt xám và đồng tử màu đỏ, đáy mắt không có sắc tố. Bệnh nhân giảm thị lực, sợ ánh sáng, rung giật nhãn cầu và loạn thị.
Bệnh bạch biến có thể gặp ở mọi lứa tuổi. Nhưng thường bắt đầu ở tuổi từ 20 đến 30. Biểu hiện lâm sàng là các dát trắng do mất sắc tố, giới hạn thường rõ ràng với vùng da lành, vị trí hay gặp ở vùng da hở, sang chấn như ở mu tay. Một đặc điểm quan trọng giúp cho chẩn đoán phân biệt bạch biến với các bệnh da khác là lông trên thương tổn cũng trắng. Ngoài thương tổn da, có thể có các thương tổn khác như cường tuyến giáp trạng, suy tuyến thượng thận, đái tháo đường… bệnh di truyền gen trội.

Khô da sắc tố
Đây là một bệnh da hiếm gặp, di truyền theo kiểu lặn, do sự biến đổi của gen P53 dẫn đến việc giảm khả năng sửa chữa AND bị đột biến chủ yếu do tia cực tím gây nên, xảy ra trong quá trình phát triển cơ thể. Bệnh biểu hiện sớm với các thương tổn rối loạn sắc tố ở vùng da hở như ở mặt, cổ, kèm theo có những đám dày sừng. Bệnh tiến triển mạn tính và dẫn đến tình trạng ung thư da. Tránh ánh nắng mặt trời bằng mặc quần áo dài tay. Đội mũ rộng vành và sử dụng kem chống nắng đúng qui cách là biện pháp điều trị cơ bản để phòng tránh các thương tổn ác tính trên da.
Loạn sản ngoại bì giảm tiết mồ hôi
Bệnh gồm nhiều thể khác nhau với các triệu chứng khô da, tóc rụng thưa và loạn dưỡng móng. Trong đó,  khô da do giảm hoặc không tiết mồ hôi là dấu hiệu quan trọng nhất gây ra tình trạng tăng nhiệt độ của cơ thể và nhiều biến chứng khác. Bệnh di truyền theo nhiều phương thức khác nhau chủ yếu từ người mẹ mang gen bệnh truyền cho con trai.
U xơ thần kinh
Bệnh u xơ thần kinh do tổn thương chromosome 17 hoặc 22. Bệnh di truyền trội, do vậy khi bố hoặc mẹ mắc bệnh thì 50% con cái bị bệnh. Biểu hiện trên da là những u mềm, kích thước thay đổi từ 0,5 đến một vài cm, đôi khi rất lớn gây biến dạng cơ thể. Bệnh có thể xuất hiện sớm hay muộn sau khi sinh. Lúc đầu chỉ có một vài thương tổn. Đôi khi trên da chỉ có các dát sắc tố màu cà phê sữa. Số lượng thương tổn xuất hiện tăng dần trong quá trình phát triển của cơ thể. Kèm theo bệnh nhân có thể có biểu hiện chậm phát triển về tinh thần. Bệnh tiến triển hoàn toàn lành tính. Việc điều trị chủ yếu là phẫu thuật cắt bỏ những thương tổn u có kích thước lớn, ảnh hưởng đến chức năng và thẩm mỹ.
Ngoài ra còn rất nhiều các bệnh da có tính chất gia đình di truyền khác. Các hướng nghiên cứu hiện nay trên thế giới chủ yếu tập trung vào việc xác định vai trò của các gen và mối tương quan giữa các gen bị biến đổi cũng như vai trò của môi trường đối với quá trình xuất hiện và tiến triển của bệnh. Nghiên cứu ứng dụng tế bào gốc trong điều trị một số bệnh da do di truyền đã có những kết quả bước đầu đáng khích lệ. Tuy nhiên, việc điều trị còn gặp rất nhiều khó khăn, chủ yếu là điều trị triệu chứng và phòng các biến chứng của bệnh. Việc hôn thú cùng huyết thống làm tăng khả năng bị bệnh. Do vậy, việc tư vấn các bác sĩ chuyên khoa hay các nhà di truyền học trước khi xây dựng gia đình vẫn là biện pháp quan trọng nhất nhằm phòng tránh các bệnh di truyền cho những thế hệ kế tiếp.

Điều trị bệnh vảy cá bẩm sinh cho đến hiện nay còn gặp nhiều khó khăn, chủ yếu là sử dụng các sản phẩm chống khô da và các thuốc bong vảy da. Vitamin A axít có tác dụng tốt trong một số trường hợp. Tuy nhiên, việc sử dụng thuốc phải có chỉ định của các bác sĩ chuyên khoa.

Nấm nông là bệnh da khá phổ biến do các vi nấm ký sinh ở thượng bì hoặc thành phần phụ của da như lông, tóc, móng gây nên. Bệnh gặp nhiều ở các nước trong vùng nhiệt đới nóng và ẩm. Tại Bệnh viện Da liễu Trung ương trong thời gian 3 năm từ tháng 1 năm 2007 đến hết tháng 12 năm 2009 có gần 30.000 bệnh nhân được chẩn đoán là nấm da, chiếm 6,3% tổng số bệnh da đến khám và điều trị.

Bệnh nấm tuy không nguy hiểm đến tính mạng, nhưng thường có triệu chứng cơ năng ngứa nhiều, nếu không được điều trị hay điều trị không đúng, thương tổn nấm có thể lan tỏa, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống.

Nấm da gặp ở mọi lứa tuổi. Tuy nhiên, bệnh thường gặp ở người trẻ. Theo nghiên cứu tại Bệnh viện Da liễu Trung ương, trên 50% bệnh nhân từ 20 đến 29 tuổi, trong đó, chủ yếu là học sinh và sinh viên. Điều kiện sinh hoạt thiếu thốn, sống tập thể, ngủ chung và dùng chung quần áo là những điều kiện thuận lợi cho nấm lây lan và gây bệnh. Khí hậu nóng ẩm, ra nhiều mồ hôi làm cho pH của da thay đổi  cũng là một trong những yếu tố thuận lợi cho nấm phát triển.
Những bệnh nấm nông thường gặp
Nấm nông ở da gồm nhiều loại khác nhau. Hắc lào là bệnh nấm da phổ biến nhất do các loại nấm sợi (dermatophytes) gây nên. Nấm sợi gồm ba loại chủ yếu là Trichophyton, Epidermophyton, Microsporum và chúng ký sinh chủ yếu ở chó, mèo hay chuột. Khi có điều kiện thuận lợi sẽ lây lan sang người và gây bệnh ở da, tóc và móng. Nấm sợi có ái tính với các tế bào sừng của thượng bì. Khi bám vào các tế bào sừng, sợi nấm tiết ra keratinase, một loại men có tác dụng tiêu hủy keratin, thành phần cấu tạo chủ yếu của các tế bào sừng (keratinocyte). Thương tổn trên da là các mụn nước tập trung thành đám hình tròn hay hình nhiều cung, trên có vảy da. Thương tổn có xu hướng lành ở giữa và lan ra xung quanh và ngứa nhiều. Tùy vị trí gây bệnh mà có các tên khác nhau như nấm thân mình (Tinea corpris), ở đầu (tinea capitis), ở mặt (tinea faciei) hay ở chân (tinea pedis)... kèm theo bệnh nhân có ngứa nhiều, nhất là khi trời nóng, ra nhiều mồ hôi. Nếu không được điều trị, thương tổn có xu hướng lan rộng. Ở những bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch bẩm sinh hay mắc phải hoặc những bệnh nhân điều trị các thuốc ức chế miễn dịch, thương tổn có thể lan rộng ra toàn thân.
Lang ben là bệnh da do nấm có tên Malassezia furfur gây nên. Vi nấm có hình tròn hay hình bầu dục, ký sinh chủ yếu ở vùng da tăng tiết chất bã nhờn. Trên da bình thường cũng có vi nấm, tuy nhiên chúng không gây bệnh. Da ẩm ướt, suy giảm miễn dịch, đái tháo đường là những điều kiện thuận lợi cho vi nấm phát triển và gây bệnh. Thương tổn trên da là các dát kích thước từ 0,5 đến 2 cm đường kính, giới hạn rõ ràng với vùng da lành, trên có vảy da khô mỏng như vảy cám, dễ bong. Ở người da thẫm màu dát thường có màu trắng, ở người da trắng dát có màu nâu. Các thương tổn có thể liên kết với nhau tạo thành mảng lớn, bờ khúc khuỷu như hình bản đồ. Thương tổn trở nên đỏ và ngứa khi ra nắng. Trong một nghiên cứu của Bộ môn Da liễu Trường đại học Y Hà Nội tại xã Vĩnh Phúc huyện Thanh Trì - Hà Nội cho thấy 3,1% trong số 513 người được khám mắc bệnh lang ben và  tại Bệnh viện Da liễu Trung ương trung bình một năm có 1673 bệnh nhân bị bệnh lang ben đến khám và điều trị, chiếm 16,9%  tổng số bệnh nhân bị bệnh nấm nông và 1,1% các bệnh da  nói chung.

Một số hình ảnh nấm nông trên da.

Các bệnh da và niêm mạc
do Candida chiếm khoảng 1% các bệnh nấm da. Chủng hay gây bệnh nhất là Candida albican. Biểu hiện của viêm kẽ do Candida trên lâm sàng là các dát đỏ giới hạn rõ hình tròn hay hình nhiều cung, xung quanh thường có các thương tổn vệ tinh. Vị trí hay gặp ở kẽ bẹn, mông, cổ, là những nơi luôn ẩm ướt. Ngoài ra, vi nấm còn có thể gây viêm lưỡi (tưa lưỡi) ở trẻ bú mẹ hay viêm niêm mạc miệng ở những bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch. Trên thực tế tình trạng tưa lưỡi rất thường gặp ở trẻ nhũ nhi. Việc chẩn đoán bệnh do candida thường không gặp nhiều khó khăn. Nguyên tắc điều trị chủ yếu là vệ sinh sạch sẽ, sử dụng các loại thuốc chống nấm bôi tại chỗ cho kết quả tốt.
Nấm móng là bệnh thường gặp nhất trong các bệnh về móng. Nguyên nhân có thể do nấm sợi hay nấm men gây nên. Biểu hiện lâm sàng đa dạng, móng trở nên dày, màu trắng ngà và mủn, có thể có hiện tượng tách móng. Theo một nghiên cứu ở Phần Lan cho thấy tỉ lệ bệnh nhân bị nấm móng chiếm 20,2% các bệnh nhân trên 18 tuổi bị bệnh da. Mang giầy liên tục, bàn chân luôn ẩm do mồ hôi, là điều kiện thuận lợi cho nấm gây bệnh ở móng.
Nấm tóc ít gặp nhất, thường do nấm sợi lây lan từ vật nuôi trong nhà như chó, mèo. Trong thời gian 3 năm có 640 bệnh nhân bị nấm tóc, chiếm 2,1 % các bệnh nấm nông, trong đó nấm đinh hương sen (kerion de celse) là 0,4% và nấm trứng tóc 0,3%. Ngoài ra, còn có nhiều chủng nấm khác gây bệnh trên da như piedraia, phaeoannellomyces…nhưng rất hiếm gặp.
Chẩn đoán xác định các bệnh nấm nông cần dựa vào biểu hiện thương tổn trên da và xét nghiệm soi tươi tìm nấm. Cần lưu ý hiện tượng âm tính giả vì nhiều bệnh nhân đã tự điều trị bằng bôi các thuốc chống nấm trước khi đến khám và xét nghiệm. Do vậy, cần tư vấn cho người bệnh nên ngừng tất cả các thuốc bôi ít nhất từ 3 đến 5 ngày trước khi làm xét nghiệm.
Điều trị nấm nông ở da cần kết hợp nhiều biện pháp
- Vệ sinh sạch sẽ, tránh ẩm ướt, nhất là các nếp gấp. Tránh sử dụng xà phòng.
- Là quần áo thường xuyên hoặc cần phơi quần áo dưới ánh nắng mặt trời, nhất là quần áo lót có tác dụng diệt nấm, tránh hiện tượng tái nhiễm.
- Tránh tiếp xúc với các nguồn lây như chó mèo, không dùng chung quần áo chăn màn với người mắc bệnh.
- Dùng các thuốc chống nấm bôi tại chỗ đơn thuần hoặc kết hợp thuốc bôi với thuốc uống đường toàn thân tùy thuộc vào mức độ thương tổn.
- Hiện nay có rất nhiều các loại thuốc bôi có tác dụng kháng nấm như Nizoral cream (Ketoconazole) 2% , Lamisil cream (Terbinafine) 1%, Mycoster  cream (Ciclopiroxolamine) 1%.v.v. với hiệu quả điều trị cao, ít gây tác dụng phụ.
- Thời gian bôi thuốc ít nhất từ 3 đến 4 tuần. Để tránh hiện tượng tái phát, theo một số tác giả, sau khi khỏi bệnh có thể bôi thuốc duy trì 1 đến 2 lần/ tuần.
- Sử dụng các thuốc kháng nấm toàn thân cần có chỉ định của bác sỹ. Nên kiểm tra chức năng gan trước và trong qua trình điều trị và không nên phối hợp sử dụng thuốc kháng nấm kết hợp với các thuốc kháng histamine tổng hợp vì có thể gây nên các biến chứng về tim mạch.

Khi bị các loại côn trùng đốt (muỗi, bọ chét, ve ...) nơi bị đốt thường xảy ra những phản ứng ngoài da như: sưng nề đỏ, ngứa, đau...Những biểu hiện này thường tự biến mất trong vòng một vài giờ. Tuy nhiên, một số loại côn trùng có nọc độc như kiến, ong... đốt có thể gây sốc phản vệ nếu không được cấp cứu kịp thời gây nguy hiểm đến tính mạng. Bởi vậy, việc nhận biết các dấu hiệu và cách xử lý khi bị côn trùng đốt là cần thiết.

Muỗi đốt: Khi bị muỗi đốt có thể gây bệnh truyền nhiễm cho người đặc biệt là sốt xuất huyết, sốt rét,.... Sau khi bị muỗi đốt, nơi bị đốt thường sưng nề đỏ, ngứa rất khó chịu. Trước tiên sát trùng vết đốt bằng cách rửa kỹ bằng xà phòng, sau đó có thể giảm nốt sẩn ngứa bằng cách lấy một cục đá chườm lên da khoảng 5 phút. Hoặc cắt củ khoai tây thành từng lát mỏng xoa vào chỗ bị đốt. Nên thực hiện 3 lần/ngày. Có thể pha loãng giấm, xoa lên nốt muỗi đốt sẽ không bị ngứa và sưng.


Bọ chét, ve: Bọ chét sống ký sinh trên chó, mèo. Khi cắn người gây ngứa, nổi ban. Các loại côn trùng này khi cắn chúng bám rất chắc vào da, nhất là ve, do đó trước tiên cần bắt chúng kéo từ từ ra khỏi da để răng không sót lại ở chỗ cắn, hoặc dùng kim băng đốt nóng đỏ chọc vào bụng con ve vì nếu tự dứt ve ra, răng ve còn lại trong da thịt sẽ gây ngứa, đau nhức, có khi phát sốt. Sau khi bị bọ chét, ve cắn phải rửa sạch vết cắn bằng xà phòng và nước ấm. Với bọ chét đốt bôi DEP hoặc kem kháng histamin lên vết cắn. Với ve, lấy vôi tôi bôi vào vết cắn hoặc lấy thuốc lào (vê khoảng 1 viên bằng hạt lạc) tẩm nước điếu (phần nước trong điếu thuốc lào) đắp lên vết cắn và băng lại trong khoảng 15-20 phút. Ngày thực hiện 2 lần.
 Bọ chét và những vết cắn của bọ chét.
Ong: Nếu bị ong mật đốt (chỉ một nốt đốt và để lại ngỏi), lấy vòi chích của ong ra bằng cách khều nhẹ hoặc dùng nhíp lấy ra. Tránh nặn ép bằng tay vì có thể làm nọc độc lan ra. Sau đó rửa sạch vùng da bị đốt bằng xà phòng và nước ấm. Bôi dung dịch calamin (thường bôi lên vết bỏng để làm dịu đau) hoặc hồ bột natri lên vết thương mỗi ngày 2 lần, có tác dụng trung hòa và thấm hút nọc độc. Có thể chườm lạnh lên vết đốt để giảm đau và giảm sưng. Nếu bị ong vò vẽ đốt (sau khi đốt thường không để lại ngòi và một con có thể đốt nhiều nốt), nọc độc của nó có thể gây nguy hiểm đến tính mạng. Do đó ngay sau khi bị đốt cần rửa vết đốt bằng xà phòng và nước ấm rồi chườm lạnh; sau đó chuyển ngay nạn nhân đến cơ sở y tế để xử trí kịp thời.        

 Ve bám trên da và hút máu người.
Lưu ý: Khi bị côn trùng cắn đốt, nếu nhẹ có các phản ứng sẩn ngứa, sưng đỏ trên da, nếu nặng có các biểu hiện khác như đau rát nhiều, tổn thương có dấu hiệu nhiễm trùng, khó thở, hoa mắt chóng mặt, sưng môi hoặc họng,... cần đưa ngay nạn nhân đến cơ sở y tế để được xử trí và điều trị kịp thời, tránh nguy hiểm đến tính mạng. Để phòng tránh bị các loại côn trùng đốt, giữ vệ sinh nhà cửa, môi trường sạch sẽ, thông thoáng. Phun thuốc diệt muỗi, côn trùng ở những nơi có cây cối rậm rạp, kênh mương, ao hồ gần khu dân cư. Khi đi ngủ cần mắc màn tránh muỗi và các loại côn trùng khác. Ở vùng miền núi người dân khi đi rừng nên mặc quần áo dài tay, đội mũ, đi giầy, ủng để tránh bị muỗi, ong, ve,... đốt, cắn vào những vùng da bị hở.

Thứ Ba, 17 tháng 9, 2013

Vàng da, hay còn gọi là hoàng đản, là biểu hiện của tình trạng tăng chất bilirubin (sắc tố mật) trong máu (>20mg/lít). Có nhiều nguyên nhân gây ra vàng da. Có nguyên nhân đơn giản nhưng cũng có khi vàng da là triệu chứng của một căn bệnh nghiêm trọng.

Ngoài biểu hiện vàng da, bệnh nhân có lượng bilirubin trong máu tăng còn bị vàng kết mạc mắt.
Hồng cầu trưởng thành bị vỡ sinh ra chất bilirubin gián tiếp được tích trữ ở lách. Chất bilirubin gián tiếp theo tĩnh mạch cửa về gan, được gan biến thành bilirubin trực tiếp. Bilirubin trực tiếp một phần trở lại máu, một phần thải ra theo đường dẫn mật đổ vào ruột. Tại đây, bilirubin trực tiếp được giáng hóa một phần tạo sắc tố stercobilin trong phân, một phần nhỏ tạo thành urobilinogen được hấp thu và thải trừ trong nước tiểu. Bình thường, nồng độ bilirubin toàn phần trong máu nhỏ hơn 17mmol/l, chủ yếu là bilirubin gián tiếp.

 Cấu trúc phân tử bilirubin.
Vàng da có thể do tăng quá nhiều sắc tố mật trực tiếp (như tan máu), do bệnh lý ở gan hoặc do tắc nghẽn đường dẫn mật, vì thế, muốn biết chính xác là vàng da do nguyên nhân nào thì cần phải thăm khám và làm các xét nghiệm cần thiết.
Có rất nhiều nguyên nhân gây bệnh vàng da. Trước tiên, nếu bệnh nhân bị vàng da từ nhỏ thì bệnh mang tính chất gia đình, hay còn gọi là hội chứng Dubin-Johnson, Rotor (chỉ chung bệnh ứ mật tại gan có thể bẩm sinh) – một căn bệnh hiếm gặp. Những người mắc hội chứng Dubin-Johnson, Rotor vẫn có thể sống lâu. Nếu lớn lên hay gần đây da mới bị vàng thì nên nghĩ tới các trường hợp sau:
Vàng da do tắc nghẽn đường dẫn mật: Những bệnh gây tắc nghẽn đường mật thường là các bệnh: u đường mật ngoài gan, thường gặp nhất là ung thư bóng Vanter, ung thư đường mật. Biểu hiện lâm sàng là dấu hiệu tắc mật tăng dần kèm những cơn đau quặn gan không điển hình và có sốt. Ung thư đầu tụy: Thường xảy ra ở nam giới trên 60 tuổi, có tiền sử viêm tụy mạn hoặc đái tháo đường. Thể trạng suy giảm, tình trạng tắc mật tăng dần, vàng da đậm. Ung thư đường mật trong gan: triệu chứng vàng da thường từ từ và rất chậm, thường kết hợp với một bất thường bẩm sinh trong đường mật như nang ống mật chủ, viêm xơ đường mật nguyên phát. Sỏi đường mật: khởi bệnh điển hình với đau, sốt, vàng da của tam chứng Charcot, khám có gan to, túi mật to và đau.
 Các bệnh lý ở gan mật là một trong các nguyên nhân gây vàng da.
Ngoài ra còn có một số nguyên nhân khác như ung thư túi mật, hạch di căn chèn vào đường mật, ung thư gan nguyên phát hoặc thứ phát, bệnh lao gan, bệnh sán lá gan...
Vàng da do tổn thương tế bào gan: Các tế bào gan bị tổn thương trong các bệnh sau: viêm gan cấp do virut: bệnh tiến triển qua các giai đoạn như: giai đoạn trước vàng da với các biểu hiện giống cúm; giai đoạn vàng da với các biểu hiện vàng da rõ, phân bạc màu, gan hơi to không đau, lách hơi to, men transamilase tăng cao, bilirubin tăng cả trực tiếp và gián tiếp. Viêm gan cấp do rượu. Viêm gan do thuốc: các thuốc như paracetamol, rifamicin và INH, MTU, PTU... có thể kèm các biểu hiện khác như ngứa, nổi mề đay, sốt.
Ngoài ra còn một số nguyên nhân khác như xơ gan mật tiên phát, ứ mật tái phát lành tính.
Vàng da do tan máu: Thiếu máu do tan máu bẩm sinh hoặc mắc phải có nguyên nhân tại hồng cầu hoặc ngoài hồng cầu. Đó là do hồng cầu bị phá hủy trực tiếp màng tế bào như trong bệnh sốt rét hoặc do biến dạng hồng cầu như trong bệnh hồng cầu hình lưỡi liềm, hoặc do giảm sức bền hồng cầu thứ phát do bất thường biến dưỡng. Đặc điểm của các bệnh này là da vàng nhạt, kín đáo, thiếu máu tái phát nhiều lần, lách to.
Dựa vào một số yếu tố đi kèm với chứng vàng da có thể xác định được nguyên nhân gây bệnh. Chẳng hạn: ngứa lâu năm, nay lại vàng da, cần nghĩ đến chứng do ứ mật trường diễn trong gan. Từng sống ở những vùng có ký sinh trùng gây bệnh thì vàng da có thể là hậu quả của sự hình thành các kén nước trong gan. Nếu đường gan mật từng phải mổ, nên nghĩ tới chít hẹp đường mật sau mổ.
Nếu nghiện rượu lâu năm, đó là dấu hiệu xơ gan, viêm gan.
Bệnh tiểu đường trên 50 tuổi, vàng da thường là biểu hiện ung thư tụy.
Vàng da ở người bệnh ung thư (đã được chẩn đoán hoặc vừa mổ) có thể báo hiệu là đã bị di căn vào gan.
Vàng da có thể là biểu hiện viêm gan hoặc xơ gan nếu kèm theo lách to. Nếu gan to cứng như đá, mặt gồ ghề, phản ứng nhạy khi nắn vào thì có thể kết luận chắc chắn là ung thư gan.
Vàng da kèm với túi mật to, gan to, là bị tắc nghẽn ở ống mật chủ. Nếu sờ thấy gan to nhưng túi mật bé, cần nghĩ tới tắc nghẽn trong gan. Trường hợp gan không to, túi mật bé thì chắc chắn không có tắc nghẽn đường dẫn mật chủ.
Vàng da còn có thể là do ăn nhiều trong thời gian dài thực phẩm có chất caroten như cà rốt, đu đủ, cà chua. Những trường hợp vàng da này không liên quan tới tình trạng tăng chất bilirubin. Chỉ cần không ăn các thực phẩm nói trên chứng vàng da sẽ hết.

Nguyên nhân gây sẩn ngứa do côn trùng thường do ruồi vàng hoặc bọ chét. Tổn thương thường xuất hiện ở những vùng hở như hai chân, hai tay hoặc ở ngang thắt lưng... Lúc đầu mới bị côn trùng đốt, thì tại chỗ bị đốt nổi lên những sẩn tịt (còn gọi là sẩn phù) có đường kính vài mm. Giữa sẩn có điểm châm kim mớm dịch hay rớm máu, ngứa nhiều. Sau vài ngày do ngứa gãi, các sẩn trợt ra (sẩn trợt) màu đỏ, trên có vẩy tiết màu nâu, có khi nhiễm khuẩn có mủ (gọi là sẩn trợt nhiễm khuẩn). Đa phần sẩn trợt sẽ khỏi, một số lâu ngày thành sẩn cục vài mm, 1-2cm đường kính, cộm cứng máu thâm đen, rất ngứa, tồn tại lâu dài, dai dẳng, khó điều trị.

 

Con bọ chét.
Khi bị sẩn ngứa do côn trùng có thể dùng các thuốc sau:
Dùng thuốc tại chỗ: đối với sẩn tịt ban đầu nặn nhẹ máu ra, chấm cồn iốt 1%. Đối với sẩn chợt nhiễm khuẩn bôi thuốc màu (dung dịch xanh metylen 1%, dung dịch tím metin 1%). Khi tổn thương khô bôi mỡ kháng sinh kết hợp với corticoid. 
Đối với sẩn cục có thể bôi thuốc mỡ  salicylic 5-10%, mỡ corticoid hoặc đốt điện, hoặc có thể dùng laser CO2...
Toàn thân (dùng thuốc uống), có thể uống kháng histamin tổng hợp như chlopheniramin để chống ngứa. Nếu sẩn cục mức độ nhiều có thể cho uống 1 đợt prednisolon liều trung bình nếu không có chống chỉ định (nếu người bệnh không có chống chỉ định với thuốc này).
Nốt sẩn ngứa do bọ chét đốt. Ảnh: TL
Để phòng bệnh ở vùng có côn trùng hoặc đi qua vùng có côn trùng  cần mặc quần áo dài che kín, đi giầy tất và xoa dầu Dep chống côn trùng đốt.           

Dày sừng lòng bàn tay, bàn chân là bệnh do bẩm sinh và di truyền gây nên với biểu hiện lâm sàng là dày sừng ở da lòng bàn tay và bàn chân. Đây là bệnh lý do sự đột biến của các gen mã hóa cấu trúc tại thượng bì gây nên.

Nhận diện thể bệnh
Dày sừng lòng bàn tay, bàn chân được mô tả thành 3 thể lâm sàng:
Dạng lan tỏa: Đặc trưng bởi một dát phẳng, dày sừng đối xứng trên toàn bộ bàn tay, bàn chân. Thể này thường xuất hiện từ khi sinh hoặc trong vài tháng đầu đời.
Dạng ổ: Là một mảng rộng, rắn chắc của keratin phát triển tại vị trí thường xuyên bị ma sát, chủ yếu là ở chân, mặc dù cũng có thể ở lòng bàn tay và các vị trí khác. Dạng chai trong nhóm dày sừng lòng bàn tay, ổ này có thể hình đĩa hoặc hình dải.
Dạng điểm: Nhiều điểm dày sừng ở bề mặt lòng bàn tay, bàn chân. Chúng có thể tổn thương toàn bộ bề mặt lòng bàn tay, bàn chân hoặc có thể giới hạn hơn ở vùng phân bố (đường chỉ lòng bàn tay).
Dày sừng có thể chỉ có ở lòng bàn tay, bàn chân nhưng cũng có thể phối hợp với tổn thương ở da, tóc, răng, móng hoặc tuyến mồ hôi, bao gồm chứng loạn sản tuyến mồ hôi ectodermal. Ngoài ra còn có hội chứng dày sừng phối hợp với bất thường các cơ quan khác, bao gồm điếc, bệnh cơ tim và ung thư.  
Một số tổn thương dày sừng
Dày sừng lòng bàn chân, bàn tay vảy nến: Có khuynh hướng tạo thành vảy bạc và dày sừng thành ổ không giới hạn ở vùng tỳ đè, thường phối hợp với tổn thương móng, khớp và tổn thương điển hình trên các vị trí da khác.
Dày sừng dạng chấm mắc phải: Dày sừng dạng chấm xuất hiện muộn, có thể phối hợp với ung thư, thường ở người trung tuổi.
Dày sừng do nhiễm độc arsen: Dày sừng dạng hạt do ăn uống lâu dài các chất chứa arsen, phối hợp với tăng sắc tố dạng giọt mưa và dễ nhạy cảm trở thành ung thư da không liên quan đến sắc tố ở vùng có nguồn nước bị ô nhiễm arsen.
Nấm bàn chân mạn tính: Có thể gây ra dày sừng lan rộng như là phủ một lớp vảy bột, nhưng sạch hoàn toàn với điều trị thuốc chống nấm, không giống nhiễm khuẩn thứ phát của dày sừng lòng bàn tay, bàn chân.

Dày sừng lòng bàn tay.
Biến chứng của dày sừng
Đau: Đây là biến chứng ngoại lệ trong dày sừng thành ổ với sự nặng lên của tổn thương trên vùng tỳ đè, gây đau khi đi như trên bãi đá cuội. Tuy nhiên, hiện tượng đó không cải thiện nhiều lắm khi cắt đi các đám dày sừng chính và làm trầm trọng thêm sự dễ tổn thương của da. Vì vậy, bệnh nhân cần thêm thuốc giảm đau. Giày dép đặc biệt làm cân bằng trọng lượng cũng có thể giúp cho bệnh nhân thoải mái hơn.
Khó đi lại: Thứ phát của đau gây ra khó đi lại, bệnh nhân có thể phải trợ giúp bắt buộc để đi lại như là nạng, xe lăn.
Sử dụng tay để làm việc và cử động tinh vi bị hạn chế: Dày sừng lòng bàn tay tạo thành một cái băng kiểu găng tay cứng ở tay và ngón tay, làm cùn cảm giác và gây khó khăn cho hoạt động, hạn chế hiệu lực công việc.
Nhiễm khuẩn thứ phát: Đặc biệt khi tăng tiết mồ hôi hoặc da bị ẩm ướt, có xu hướng nhiễm khuẩn thứ phát, đặc biệt nhiễm nấm. Những bệnh nhân đó có thể phải sử dụng liên tục thuốc chống nấm toàn thân, đặc biệt là terbinafine, và điều trị tại chỗ nấm men và dermatophytes.
Dày sừng được điều trị thế nào?
Biện pháp cắt bỏ tổn thương thường xuyên có thể làm giảm mảng dày sừng. Sử dụng thuốc mỡ làm bong vảy tại chỗ. Kem chống nấm và thuốc chống nấm tại chỗ có thể cần được dùng thành từng đợt liên tiếp nhắc lại. Sử dụng retinoid có thể có hiệu quả trực tiếp làm bình thường hoá da dày sừng. Tuy nhiên, điều trị đòi hỏi suốt đời và gây các biến chứng quan trọng như dày màng xương. Thêm vào đó, xử lý dày sừng có thể làm tăng nhạy cảm và dễ bị tổn thương của lớp thượng bì và điều đó hạn chế sự hữu ích của các phương pháp điều trị.    

Ghép da là một phẫu thuật thông thường nhằm tạo điều kiện cho sự lành các vết thương bỏng sâu. Trong phòng mổ dưới gây mê toàn thân, phẫu thuật viên sẽ lấy đi một miếng da mỏng hoặc dày từ vùng da không bị bỏng (vùng cho da) ghép lên vùng bỏng sâu đã được cắt bỏ hoại tử, có tổ chức hạt đỏ, sạch và bằng phẳng.

Người ta có thể sử dụng mảnh da có kích thước lớn ghép vào các vùng thẩm mĩ, vùng vận động như: mặt, cổ, tay, các ngón tay hoặc khi diện tích cần ghép không lớn. Khi diện tích vùng cần ghép quá lớn (bệnh nhân bỏng sâu diện tích rộng), người ta có thể sử dụng mảnh da khía mắt lưới nhằm làm tăng diện tích cần che phủ (gấp 2 - 3 - 4 lần so với diện tích lấy da). Các lỗ được tạo ra trong mảnh da khía mắt lưới cho phép dẫn lưu được dịch tồn đọng trong nền vết thương, tránh ứ dịch dưới mảnh da ghép.


Mảnh da ghép sống như thế nào?
Mảnh da ghép trong 2 ngày đầu sống chủ yếu bằng hiện tượng thẩm thấu từ nền ghép. Sau đó có sự phát triển của mao mạch từ nền ghép đến mảnh ghép. Vì vậy, nền ghép phải là cân hoặc mô hạt đẹp, giữa nền ghép và mảnh ghép không có máu tụ, dị vật, không khí. Sau khi ghép phải băng ép chặt vừa phải để tạo áp lực cho mảnh ghép tiếp xúc với nền ghép tốt.
Thay băng thì đầu thường tiến hành từ 3 - 5 ngày sau ghép da, lớp gạc ngoài cùng có thể thay đổi hàng ngày nếu cần thiết. Cần theo dõi các dấu hiệu nhiễm khuẩn, tụ máu, dịch, bóng khí dưới mảnh ghép, điều này sẽ ảnh hưởng sự bám dính của mảnh ghép. Nếu ghép da vùng chi thể, vùng chi thể cần được nâng cao nhằm giảm phù nề, cũng như cần cố định tốt các chi thể sau ghép da bằng các thanh nẹp ở các tư thế chức năng. Nếu ghép chi dưới, nếu đứng, đi lại sớm có thể gây nốt phồng, chảy máu và làm hư hại mảnh ghép. Vì vậy, việc nghỉ ngơi tại giường thường được khuyến cáo, thông thường là 5 ngày.
Chăm sóc da ghép và vùng cho da
Thường thay băng thì đầu tiến hành từ 3 - 5 ngày sau ghép và bác sĩ sẽ đánh giá tình trạng mảnh da ghép. Các chỉ định thay băng sau đó thường căn cứ vào tình trạng của vết thương.
Đối với vùng cho da, điều dưỡng có thể bóc từng lớp gạc xốp bên ngoài, để lại lớp gạc dầu bên trong. Nếu diễn biến thuận lợi sau 7 - 10 ngày vùng cho da sẽ tự liền.
Khi vết thương lành, vết thương cần giữ trong môi trường ẩm, các sản phẩm giữ ẩm sẹo không nên chứa nước hoa và ít bị kích ứng, băng ép vết thương với áp lực vừa phải giúp giảm sưng nề, giúp sẹo phẳng hơn.
Một số lời khuyên
- Chế độ ăn uống giàu protein sẽ giúp cho mảnh ghép bám tốt, lành nhanh vùng cho da, giảm nguy cơ nhiễm khuẩn.
- Nâng cao vùng chi, giữ nghỉ ngơi tại giường nếu ghép da vùng chi.
- Cố định các chi thể sau ghép da bằng các thanh nẹp.
- Ngưng hút thuốc lá.
- Vệ sinh cá nhân (đánh răng, gội đầu, chải tóc…).
- Nhắc nhở thân nhân, người chăm sóc cần tuân thủ việc kiểm soát nhiễm khuẩn (rửa tay, mang găng vô trùng…) nhằm giảm tình trạng nhiễm khuẩn chéo.

Duhring - Brocq ( DH) là một bệnh viêm da dạng Herpes, tự miễn dịch. Ðây là bệnh da sần - mụn nước, ngứa nhiều ,đặc trưng bởi tổn thương phân bố đối xứng trên bề mặt duỗi như khuỷu tay, đầu gối, mông lưng, da đầu, gáy.

Vì sao mắc bệnh Duhring – Brocq?
Người ta cho rằng có một số yếu tố liên quan đến việc mắc bệnh đó là: Do cơ thể tự miễn dịch: bệnh DH thường có biểu hiện của bệnh tự miễn như viêm cầu thận, thiếu máu Bermeer, viêm tuyến giáp, Lupus ban đỏ hệ thống, viêm đa sụn mạn tính; Do gluten: gluten là một protein có trong ngũ cốc (trừ lúa và ngô) được xem như một kháng nguyên ở bệnh nhân DH. Thành phần của gluten có gliadin, chất này liên kết với reticulin là một chất quan trọng ở vùng màng đáy, nó có vai trò làm tăng sự bám dính của màng đáy. Chất gliadin còn kết hợp với chất ngoài tế bào làm  tăng độ nhớt của mô. Trong bệnh DH, tăng độ nhớt ngoài tế bào kết hợp với sự khuyếch tán của dịch tổ chức ở nhú bì và dẫn đến hình thành mụn nước gây ra bệnh; Do bệnh tiêu chảy mỡ: Ở bệnh nhân DH gặp bệnh lý dạ dày - ruột, teo nhung mao ruột non, nhưng bệnh  ruột non ở bệnh nhân DH thường nhẹ hơn ở bệnh tiêu chảy; Do di truyền.


 Tổn thương viêm da trong bệnh Duhring ở khuỷu tay. 
Nhận diện bệnh
Khi mắc bệnh DH, bệnh nhân thường có sốt nhẹ hoặc không sốt, mệt mỏi, sút cân, kém ăn. Ở vùng da sắp tổn thương thường có dấu hiệu báo trước là ngứa, sau đó là rát bỏng hoặc đau. Tổn thương thường gặp là mảng nốt sần, sần - mụn nước hay mề đay.Vì ngứa nhiều nên bệnh nhân phải gãi, vì thế có thể thấy xước da và nốt sần đóng vẩy. 
Tổn thương mang tính chất đối xứng, vị trí thường gặp là: ở mặt gấp cẳng chân, cẳng tay, cánh tay, ở mông, đùi, lưng và bụng, ít gặp ở nách và xương cùng. Khoảng 4,6%  bệnh nhân có tổn thương ở niêm mạc miệng. Lúc đầu là các ban đỏ, mụn nước, sẩn, sau thành bọng nước, phân bố lẻ tẻ hay cụm lại từng đám. Bọng nước to bằng hạt ngô chứa dịch  màu vàng chanh, có khi bọng nước xuất huyết. Từ 5 - 7 ngày, bọng nước sẽ làm mủ và vỡ ra để lại vết trợt, đóng vảy tiết, vảy mủ. Tổn thương gồm nhiều giai đoạn như: ban đỏ, bọng nước, có chỗ loét, có chỗ chỉ để lại một dát sẫm màu. Bệnh tiến triển thành từng đợt, khi tăng khi giảm, có thời gian ổn định nhưng sau lại tái phát. Một số trường hợp bệnh kéo dài suốt đời nhưng bệnh nhân vẫn có cuộc sống sinh hoạt lao động bình thường. Tuy nhiên, ở một số bệnh nhân cao tuổi có thể bị suy kiệt.
Xét nghiệm máu thấy bạch cầu ái toan tăng trên 10% hoặc hơn. Test bằng iodua kali (KI) dương tính (cho bệnh nhân uống 1g hoặc bôi tại chỗ mỡ KI 50% trong vaseline lên da, phản ứng xuất hiện sau 24 - 48 giờ dưới dạng ban đỏ ngứa hoặc bọng nước ngứa).
Test miễn dịch huỳnh quang có giá trị nhất để chẩn đoán bệnh DH, thấy có lắng đọng IgA ở đỉnh nhú bì với tỷ lệ dương tính 85 - 90% .
Chẩn đoán xác định dựa vào bốn triệu chứng điển hình: ngứa ở da trước khi xuất hiện tổn thương, ban đỏ, sẩn, mụn nước, bọng nước.
Chẩn đoán phân biệt với một số bệnh: Pemphigus thông thường thì tổn thương mang tính chất đơn dạng là bọng nước ở lớp thượng bì và  test KI âm tính. Bệnh Pemphigoid bọng nước là bệnh thường gặp ở người cao tuổi, bọng nước căng to khó vỡ, nếu vỡ thì chóng lành, test miễn dịch huỳnh quang trực tiếp phát hiện lắng đọng kháng thể  IgG  và  bổ thể ở màng đáy. Ban đỏ đa dạng là tổn thương  bị nhiễm tế bào như trong bệnh DH. Chốc tổn thương là các bọng nước trên nền da viêm đỏ, bọng nước nhanh chóng vỡ để lại vảy tiết màu vàng chanh. Mề đay dị ứng tổn thương là các ban đỏ, sẩn, phù, thường có ngứa nhưng điểm đặc biệt là xuất hiện nhanh và mất đi nhanh. Ngoài ra còn phân biệt với bệnh zona thần kinh, sẩn ngứa thể bọng nước…
Chữa trị bệnh
Việc điều trị tại chỗ chủ yếu dùng các dung dịch sát khuẩn như milian, tím metyl, xanh metylen bôi vào các  tổn thương. Trường hợp tổn thương còn phỏng nước thì cần dùng kim vô khuẩn chọc thấm dịch trước khi bôi thuốc. Đối với các tổn thương khô có thể bôi mỡ cloroxit, flucina. Trường hợp nặng, bệnh nhân có thể được chỉ định dùng thuốc toàn thân như sau: dùng corticoid 30 - 40mg/ngày,  sau đó hạ  liều dần trong 4 - 8 tuần. Kháng sinh erythromyxin uống 1 - 1,5gam/ ngày cho từng đợt 7 ngày trong 2 - 3 đợt. Bệnh nhân đáp ứng nhanh chóng (chỉ trong 1 - 2 ngày) với thuốc dapson nhưng phải theo dõi sát để tránh biến chứng.

Thứ Hai, 16 tháng 9, 2013

Ở bệnh nhân viêm gan B, dù ít hay nhiều thì gan cũng đã bị tổn thương do đó nó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tình trạng sức khỏe của người bệnh, ảnh hưởng đến quá trình chuyển hóa chất dinh dưỡng cũng như giải độc của cơ thể. Do đó, một chế độ ăn uống hợp lý kết hợp với nghỉ ngơi, ngủ đủ giấc giữ vai trò đặc biệt quan trọng, góp phần cải thiện tình trạng gan của người bệnh, tránh để những hậu quả xấu xảy ra.

Thiếu ngủ làm cho bệnh viêm gan thêm nặng hơn
Theo các bác sĩ phòng khám chuyên gan 12 Kim Mã, gan là bộ phận lưu trữ điều chỉnh các chức năng của máu. Nếu cơ thể được nghỉ ngơi trong trạng thái yên tĩnh, khi nhu cầu máu của các bộ phận được giảm xuống thì lượng máu đó được trở lại gan. Khi vận động học tập làm việc gia tăng, nhu cầu máu gia tăng, lượng máu tích lũy trong gan lưu thông nhiều hơn nhằm đáp ứng nhu cầu của cơ thể. Nếu thiếu ngủ, hoặc nghỉ ngơi không hợp lí dẫn đến sự thiếu hụt của máu ở gan ảnh hưởng đến sự nuôi dưỡng tế bào gan gây ra khả năng miễn dịch giảm. Với người nhiễm virus viêm gan B, tế bào bị hư hại sẽ rất khó phục hồi và có khả năng nguy hiểm hơn.
Một số bệnh nhân viêm gan B do thiếu ngủ, thức khuya vào ban đêm nên thường có thói quen ăn đêm, nhất là ăn các đồ ăn nhanh, điều đó lại càng làm cho bệnh tình thêm nặng hơn bởi gan của người bệnh vốn đã yếu thì nay lại phải làm việc nặng nề hơn. Vì vậy, đối với bệnh nhân viêm gan B, việc nghỉ ngơi và ngủ đủ giấc giữ vai trò rất quan trọng giúp cho bệnh tình nhanh chóng thuyên giảm.

Thiếu ngủ làm bệnh viêm gan thêm nặng hơn
Lời khuyên của bác sĩ
Viêm gan B là căn bệnh gặp khá phổ biến hiện nay. Bệnh lây lan nhanh và tỷ lệ người bệnh diễn tiến sang xơ gan và ung thư gan rất lớn. Vì vậy, việc phòng và điều trị bệnh viêm gan B sao có hiệu quả là việc làm rất cần thiết.
Người bệnh cần có chế độ ăn uống và tập luyện thể dục thể thao hợp lý để tăng cường sức khỏe. Người bệnh phải kiêng rượu, bia và các loại nước có cồn. Không nên ăn các đồ cay nóng và nhiều dầu mỡ bởi nó sẽ làm cho gan phải làm việc nặng nề hơn. Người bệnh nên tăng cường ăn các loại rau xanh và hoa quả tươi, bổ sung các loại vitamin thiết yếu để giúp lá gan của mình được cải thiện tốt hơn.
Cùng với chế độ ăn uống khoa học người bệnh cần có chế độ nghỉ ngơi hợp lý, ngủ đủ giấc để đảm bảo sức khỏe. Bệnh nhân viêm gan B nên nghỉ ngơi từ 23h để có được giấc ngủ sâu vào 1-3h sáng, bởi đây là thời gian tốt nhất nuôi dưỡng máu trong gan. Nên ngủ 8 tiếng mỗi ngày, người già là 7-9 tiếng để đảm bảo sức khỏe tốt nhất cũng như góp phần cải thiện tình trạng tổn thương ở gan.
Theo các bác sĩ phòng khám chuyên gan 12 Kim Mã, người bệnh càng chú ý phòng và điều trị bệnh tốt bao nhiêu thì nguy cơ bệnh viêm gan B diễn tiến sang xơ gan và ung thư gan càng ít bấy nhiêu. Người bệnh nên gặp và trao đổi với các bác sĩ chuyên khoa gan để có được những lời khuyên và phác đồ điều trị tốt nhất.
Phòng khám chuyên gan 12 Kim Mã là cơ sở điều trị bệnh gan chuyên nghiệp của Hà Nội, có các thiết bị điều trị và chẩn đoán bệnh gan tiên tiến của quốc tế và đội ngũ các bác sĩ chuyên ngành nhiều kinh nghiệm lâm sàng phong phú, có thể phân tích tường tận bệnh tình của từng bệnh nhân, đưa ra các phương án điều trị thích hợp nhất cho từng bệnh nhân để mang lại hiệu quả điều trị tốt nhất, sớm lấy lại sức khỏe!

Có thể nhiều người không thích những món ăn sau đây nhưng thực tế chúng lại rất có lợi cho sức khỏe, đặc biệt là tác dụng phòng ngừa ung thư rất hiệu quả.

Hãy để bác sĩ phòng khám 12 Kim Mã giới thiệu với các bạn 6 loại thực phẩm này.

Slide2
Slide3
Slide4
Slide5____
Slide6
Slide7
Phòng khám 12 Kim Mã là cơ sở điều trị bệnh gan chuyên nghiệp của Hà Nội, có các thiết bị điều trị và chẩn đoán bệnh gan tiên tiến của quốc tế và đội ngũ các bác sĩ chuyên ngành nhiều kinh nghiệm lâm sàng phong phú, có thể phân tích tường tận bệnh tình của từng bệnh nhân, đưa ra các phương án điều trị thích hợp nhất cho từng bệnh nhân để mang lại hiệu quả điều trị tốt nhất, sớm lấy lại sức khỏe !
Nếu cần tư vấn thêm về những vấn đề liên quan đến sức khỏe, các bạn hãy gọi đến đường dây điện thoại 0437181999 để nghe bác sĩ Phòng khám 12 Kim Mã tư vấn miễn phí cho các bạn.

1. Bệnh nhân viêm gan B và người mang virus viêm gan B.
2. Theo các báo cáo y tế, hiện nay viêm gan C là nguyên nhân dẫn đến ung thư gan lớn nhất với tỉ lệ 13.2%, cao gấp ba lần tỉ lệ ung thư gan từ viêm gan B.

3. Tiếp theo là xơ gan.

4. Trong cơ thể tồn tại một lượng lớn các chất hóa học như phân bón hóa học, cồn… cũng bị nghi ngờ có khả năng gây ra ung thư gan.
Ung thư gan lấy “phát hiện sớm, điều trị sớm” làm nguyên tắc, do ung thư gan không dễ phát hiện do triệu chứng không rõ ràng, do đó thường xuyên kiểm tra, làm các xét nghiệm là điều cần thiết.
Dưới đây các bác sĩ chuyên gan phòng khám 12 Kim Mã chỉ ra 1 vài nhân tố nguy hiểm dễ dẫn dến ung thư gan:
1. Lây nhiễm virus viêm gan B, viêm gan C.
2. Aflatoxin
3. Trong nguồn nước dùng hàng ngày có lẫn 1 lượng lớn tạp chất clo hữu cơ và độc tố của tảo (thường có trong nước giếng).
4. Các nguồn khác như:
①Có tính gia đình; ②Truyền máu; ③Xơ gan do cồn và dinh dưỡng
Phòng khám 12 Kim Mã là cơ sở điều trị bệnh gan chuyên nghiệp của Hà Nội, có các thiết bị điều trị và chẩn đoán bệnh gan tiên tiến của quốc tế và đội ngũ các bác sĩ chuyên ngành nhiều kinh nghiệm lâm sàng phong phú, có thể phân tích tường tận bệnh tình của từng bệnh nhân, đưa ra các phương án điều trị thích hợp nhất cho từng bệnh nhân để mang lại hiệu quả điều trị tốt nhất, sớm lấy lại sức khỏe !
Nếu cần tư vấn thêm về những vấn đề liên quan đến sức khỏe, các bạn hãy gọi đến đường dây điện thoại 0437181999 để nghe bác sĩ Phòng khám 12 Kim Mã tư vấn miễn phí cho các bạn.

Những ngày hè, nhiệt độ tăng cao, đi biển trở thành nhu cầu nghỉ ngơi cấp thiết của mọi người. Đi biển nghỉ ngơi tắm biển, ăn đồ nướng, uống bia, tận hưởng những ngày hè tuyệt vời bên gia đình bạn bè là việc mà ai cũng thích thú. Nhưng các bạn có biết các bác sĩ phòng khám 12 Kim Mã luôn nhắc nhở mọi người đi biển phải thật cẩn thận với viêm gan A không?


Tận hưởng kì nghỉ hè ở biển mà không lo viêm gan A
Mùa hè là mùa mà tỉ lệ lây nhiễm viêm gan A tăng cao. Nếu không biết cách khử trùng các chất bài tiết của người bệnh viêm gan A thì nguồn nước, hải sản và thực phẩm rất dễ bị nhiễm khuẩn, có khả năng làm lây lan rộng rãi viêm gan A trong cộng đồng.
Ngoài ra, nghêu sò ốc hết, thủy hải sản đều có khả năng nhiễm virus viêm gan A trong nguồn nước, nếu không được nấu chin hoặc ăn sống thì khả năng nhiễm virus viêm gan A là cực kì lớn.
Bác sĩ phòng khám 12 Kim Mã khuyến cáo bệnh nhân nên phòng trừ viêm gan từ trong cuộc sống hàng ngày bằng các việc đơn giản sau: tập các thói quen sinh hoạt lành mạnh, luôn rửa tay trước khi ăn, không uống nước lã, không ăn sống hay thực phẩm không chin kĩ, luôn sử dụng hoa quả rau xanh đã được rửa kĩ, thực phẩm bảo quản trong tủ lạnh khi sử dụng lại cần được nấu chín.
Đặc biệt là các thực phẩm gia công cần chú ý về nhiệt độ, thông thường,với 100 độ C trong 1 phút virus viêm gan A đã có thể mất đi hoạt tính, thêm nữa trong nhà cần tiêu diệt các loại côn trùng như ruồi gián… để tránh lây nhiễm virus viêm gan A. Ngoài ra, không nên đến các quán ăn nhỏ ven đường không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm
Tiêm phòng vaccine viêm gan A là cách tốt nhất và kinh tế nhất để phòng tránh viêm gan A một cách hiệu quả. Đồng thời, sau khi bệnh nhân lây nhiễm virus viêm gan A, triệu chứng đầu tiên là sốt, toàn thân mất sức, sợ dầu mỡ, buồn nôn, chóng mặt; niêm mạc, da vàng; các triệu chứng này lại rất dễ bị hiểu nhầm là cảm, phải lập tức đến bệnh viện kiểm tra, tránh để lâu.
Phòng khám 12 Kim Mã là cơ sở điều trị bệnh gan chuyên nghiệp của Hà Nội, có các thiết bị điều trị và chẩn đoán bệnh gan tiên tiến của quốc tế và đội ngũ các bác sĩ chuyên ngành nhiều kinh nghiệm lâm sàng phong phú, có thể phân tích tường tận bệnh tình của từng bệnh nhân, đưa ra các phương án điều trị thích hợp nhất cho từng bệnh nhân để mang lại hiệu quả điều trị tốt nhất, sớm lấy lại sức khỏe !
Nếu cần tư vấn thêm về những vấn đề liên quan đến sức khỏe, các bạn hãy gọi đến đường dây điện thoại 0437181999 để nghe bác sĩ Phòng khám 12 Kim Mã tư vấn miễn phí cho các bạn.

Bệnh viêm gan B đang là nỗi lo của cộng đồng vì tỉ lệ mắc bệnh ngày càng gia tăng và không phân biệt bất cứ độ tuổi nào. Tuy được mệnh danh là “sát thủ âm thầm” nhưng bệnh viêm gan B hoàn toàn có thể chủ động phòng tránh và điều trị được nếu phát hiện sớm và có phương án điều trị bệnh đúng, kịp thời.




Hàng năm, số người bị viêm gan B ngày càng tăng. Theo các bác sĩ phòng khám chuyên gan 12 Kim Mã, cứ 4 – 5 người dân Việt Nam thì lại có một người bị nhiễm virus viêm gan B mạn tính. Nguyên nhân chính là do căn bệnh này thường diễn tiến âm thầm, không gây cho người bệnh các triệu chứng rõ rệt nên người bệnh thường không biết. Chỉ khi người bệnh đi khám sức khỏe hoặc tình cờ xét nghiệm máu thì mới phát hiện ra hoặc khi các triệu chứng của bệnh đã biểu hiện rõ, người bệnh đi khám mới biết thì lúc đó bệnh thường đã nặng, thậm chí có thể đã chuyển sang xơ gan hoặc ung thư gan.
Nhiều người nghĩ rằng “Mình khỏe mạnh lại ăn uống tốt nên không thể bị bệnh gan được”. Tuy nhiên, đối với người bị nhiễm virus viêm gan B thì dù người bệnh không có biểu hiện gì thì virus vẫn không ngừng hoạt động, vẫn không ngừng nhân lên và tàn phá tế bào gan của người bệnh. Vì thế, các bác sĩ của Phòng khám chuyên gan 12 Kim Mã khuyên rằng các bạn hãy làm tốt công tác kiểm tra sức khỏe định kỳ, xét nghiệm virus viêm gan B, kiểm tra chức năng gan… để đảm bảo cho mình có một lá gan khỏe nhất.
Nhằm nâng cao nhận thức về phòng chống các bệnh về gan và hỗ trợ chi phí cho bệnh nhân, phòng khám 12 Kim Mã thực hiện chương trình “Bảo vệ gan khỏe mạnh cùng phòng khám 12 Kim Mã” bao gồm nội dung tư vấn miễn phí, khám miễn phí và giảm phí các hạng mục kiểm tra bệnh gan.
- Địa điểm: tại Phòng khám đa khoa 12 Kim Mã, Ba Đình, Hà Nội.
- Thời gian: từ 15/9/2013 đến 15/10/2013.
- Đối tượng: tất cả mọi người có biểu hiện: khó chịu, đau vùng gan; mất ngủ mơ nhiều, toàn thân mệt mỏi; ăn uống kém, buồn nôn; sợ mỡ nước tiểu vàng, trướng bụng đi ngoài; sắc mặt sạm, sốt, hoàng đản; những người có tiếp xúc thân mật với người nhiễm viêm gan B… trên địa bàn cả nước.
- Nội dung khám ưu đãi và miễn phí:
Miễn phí xét nghiệm viêm gan B 5 mục:
+ HbsAg
+ Anti-HBs
+ HbeAg
+Anti-HBe
+ Anti-HBc
Giảm 20% phí kiểm tra
1. HBV-DNA (đếm virus/1ml máu)
2. Định lượng virus viêm gan B
3. Chức năng gan
4. Siêu âm ổ bụng
5. Xơ gan hóa
Giảm 30% chi phí điều trị xung mạch tần số thấp.
Cả gia đình đi khám chỉ cần đăng ký một số khám.
Chương trình “Bảo vệ gan khỏe mạnh cùng phòng khám 12 Kim Mã” nằm trong chuỗi hoạt động từ thiện thường niên của phòng khám nhằm góp phần chăm lo sức khỏe cho người dân.

Thứ Bảy, 14 tháng 9, 2013

Cho đến thời điểm hiện nay, y học chưa thể phòng ngừa được bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) type 1, nhưng hoàn toàn có thể phòng ngừa ĐTĐ type 2.


Sơ cứu: Ngừng hoàn toàn hô hấpNguyên nhân:
- Tai nạn
- Biến chứng bất ngờ của một bệnh
Triệu chứng
Ngừng tuần hoàn: thường báo hiệu trên máy chiếu điện tâm đồ hoặc biểu hiện lâm sàng: bất tỉnh, có khi co giật; xanh tái toàn thân, da lạnh; mất mạch bẹn và mạch cảnh; không đo được huyết áp; ngừng thở đột ngột hoặc từ từ. Khi có dấu hiệu đồng tử 2 bên giãn là triệu chứng tổn thương não nặng nề.
Xử trí:
Yêu cầu:
- Bảo đảm tuần hoàn não
- Bảo đảm tiếp oxy có hiệu quả
- Chống nhiễm toan
- Phải cấp cứu bệnh nhân ngay tại chỗ không chậm trễ một giây phút nào.
- Phải cấp cứu liên tục, không gián đoạn.
Nguyên tắc hồi sinh nội khoa là : Khẩn trương, bình tĩnh, kiên nhẫn. Hồi sinh trong hai giờ không có kết quả mới nên thôi.
Xoa bóp tim:
- Đặt bệnh nhân nằm ngửa trên một nền cứng, đầu thấp, chân gác cao.
- Quỳ bên phải bệnh nhân, đặt lòng bàn tay trái ở 1/3 dưới xương ức bệnh nhân, không ấn lên xương sườn, lòng bàn tay phải đặt trên bàn tay trái. Dùng sức mạnh của 2 tay và cơ thể ấn mạnh, nhịp nhàng 60 lần/phút. Lực ấn phải đủ cho xương ức và lồng ngực bệnh nhân xẹp xuống khoảng 4cm nhưng không quá nặng tuỳ theo thể trạng bệnh nhân gầy hoặc béo, lồng ngực to hay nhỏ, chắc hay mềm mà xác định lực ấn.
Dấu hiệu xoa bóp có hiệu quả:
- Mỗi lần ấn, sờ thấy mạch bẹn đập.
- Huyết áp động mạch: 70-100mmHg.
- Đồng tử không giãn to do não thiếu máu.
- Sắc mặt bệnh nhân hồng hơn.
Chống chỉ định xoa bóp tim khi bệnh nhân bị vết thương ở lồng ngực, ứ máu, chảy máu màng ngoài tim, màng phổi, khí thũng phổi.
Biến chứng của xoa bóp tim:
- Gẫy xương ức, vỡ gan, vỡ lách, chảy máu màng ngoài tim, màng phổi… rất ít gặp.
- Gẫy xương sườn thường gặp hơn nhưng cần cố tránh.
- Tràn khí màng phổi có thể xảy ra nếu đồng thời vừa ấn tim vừa thổi ngạt rất mạnh.
Thổi ngạt
- Quỳ bên trái, gần đầu bệnh nhân.
- Chuẩn bị bệnh nhân: đường khí đạo của bệnh nhân phải thông suốt: lau sạch mồm họng, lấy hết dị vật, răng giả, thức ăn, đờm rãi…; cổ ưỡn tối đa, độn gối dưới cổ bệnh nhân, kéo mạnh hàm dưới ra phía trước và lên trên cho lưỡi không tụt ra sau bịt khí quản.
- Tiến hành thổi ngạt:
Bóp mũi bệnh nhân bằng ngón cái và ngón trỏ.
Đặt 1 lớp gạc mỏng ở miệng bệnh nhân được giữ cho há to.
Hít vào thật sâu, áp mồm vào mồm bệnh nhân thổi mạnh và dài hơi, làm sao cho lồng ngực bệnh nhân nở rộng ra, mỗi phút thổi 15 lần, khi thổi thì người ấn tim ngừng ấn (4 lần ấn tim, 1 lần thổi ngạt).
Thỉnh thoảng lau đờm rãi cho đường hô hấp luôn được lưu thông.
Nếu người cấp cứu chỉ có một mình thì vừa xoa bóp tim vừa thổi ngạt, cứ 15 lần ấn tim thì 2 lần thổi ngạt liền, mạnh và sâu.
Nếu bệnh nhân nôn, co giật hoặc cứng hàm thì có thể thổi vào mũi, ở trẻ nhỏ có thể thổi cả vào mũi lẫn mồm.

Design by Hao Tran | Blogger Theme by Sức khỏe sinh sản -