Thứ Bảy, 21 tháng 9, 2013

Kẽm oxyd là một trong những thuốc rất thông dụng dùng để chữa một số các bệnh da và nhiễm khuẩn da như: hỗ trợ điều trị chàm (eczema), vết bỏng nông (diện tích bỏng nhỏ, không rộng), cháy nắng, hồng ban do bị chiếu nắng, bảo vệ da do nắng, da khô, trứng cá, côn trùng châm đốt, ban do tã lót, vảy da đầu, tăng tiết nhờn, chốc, nấm da, vẩy nến, loét giãn tĩnh mạch, ngứa.  Ngoài ra, kẽm oxyd còn được dùng điều trị vùng da bị kích ứng do lỗ dò tiêu hóa, hậu môn nhân tạo, mở thông bàng quang.


 Khám da cho bệnh nhân.Ảnh: PV
Kẽm oxyd thường được phối hợp với các hoạt chất khác trong các chế phẩm như: titan oxyd, bismuth oxyd, glycerol, bôm (nhựa thơm) Peru, ichthammol... được dùng dưới các dạng kem dùng ngoài, hồ bôi, thuốc mỡ. Nói chung thuốc dùng tương đối an toàn. Tuy nhiên thuốc có thể gây nên chàm tiếp xúc hoặc gây bội nhiễm (do các tá dược như nhựa thơm, lanolin có trong thuốc gây nên). Người bệnh có thể bị dị ứng với một trong các thành phần của chế phẩm. Nếu gặp các triệu chứng này nên ngừng thuốc. Vì vậy, đối với các trường hợp mẫn cảm với một hoặc nhiều thành phần của thuốc, hoặc những trường hợp tổn thương da bị nhiễm khuẩn không được dùng kẽm oxyd.
Trước khi bôi thuốc và trong quá trình điều trị phải đảm bảo vô khuẩn vùng được bôi thuốc vì có thể bội nhiễm ở các vùng bị thuốc che phủ.
Cách dùng
- Đối với tổn thương trên da: Sau khi rửa sạch vết thương, bôi đều một lớp thuốc mỏng lên vùng da bị tổn thương, 1 - 2 lần một ngày. Có thể dùng một miếng gạc vô khuẩn che lên.
- Chàm, nhất là chàm bị lichen hóa: Bôi một lớp dày chế phẩm hồ nước có chứa ichthammol, kẽm oxyd, glycerol lên vùng tổn thương, 2 - 3 lần một ngày.
 Hình ảnh tổn thương da do bệnh vẩy nến và viêm nang lông.    Ảnh: TL
- Ðau ngứa hậu môn, nhất là trong những đợt trĩ:
Bôi thuốc mỡ hoặc đặt đạn trực tràng có kẽm oxyd, bismuth oxyd, resorcin, sulphon, caraghenat vào hậu môn, ngày 2 - 3 lần, sau mỗi lần đi ngoài. Không nên dùng dài ngày. Nếu sau 7 - 10 ngày dùng không thấy đỡ thì phải thăm khám hậu môn trực tràng để tìm nguyên nhân gây chảy máu và cuối cùng phát hiện bệnh ác tính.

- Tổn thương do suy tĩnh mạch mạn tính, băng sau phẫu thuật giãn tĩnh mạch: Bôi phủ vết thương bằng chế phẩm có 20% kẽm oxyd trong vaselin.

Da là cơ quan ngoài cùng cơ thể. Đây là một cơ quan có mặt trên hầu khắp cơ thể, từ đầu cho tới chân. Có thể nói rằng đây là hệ thống phòng thủ mạnh nhất và hữu hiệu nhất của cơ thể.
Khi hệ thống này bị tấn công và tổn thương cũng đồng nghĩa với sức khỏe của ta có vấn đề.

 
Các bệnh nhiễm khuẩn da thường gặp
Các bệnh nhiễm khuẩn da thường gặp trong mùa hè là nhiễm trùng da do tụ cầu khuẩn, liên cầu khuẩn và do nấm da.
Tụ cầu khuẩn gây viêm nang lông. Bệnh này có đặc điểm xuất hiện những mụn nhỏ lấm tấm, ngay tại vị trí chân lông. Các mụn này có đặc điểm là ban đầu chỉ là một nốt nhỏ sau đó to hơn, tụ mủ ở chính giữa. Sợi lông mọc xiên từ dưới lên chính giữa nốt mụn như thể mụn mủ bao quanh gốc lông. Nốt mụn khá ngứa và ấn thì hơi đau. Tùy thuộc vào nhiễm khuẩn da nông (tức là ở ngay gần bề mặt cơ thể) hay sâu (tận sâu dưới da) mà nốt mụn to hay nhỏ, lâu khỏi hay nhanh khỏi. Nhưng thông thường nếu không có biến chứng gì thì không có hiện tượng rụng lông xảy ra. Bệnh thường gặp ở mặt, da đầu, cẳng chân, cẳng tay, đùi, vùng sinh dục. Khi mọc ở vùng râu cằm thì được gọi là đinh râu.
Liên cầu khuẩn gây ra các bệnh chốc loét, chốc lây trên da. Vào mùa hè, da ẩm ướt những bệnh này càng có cơ hội phát triển. Nó thường xuất hiện ở những vùng da mất vệ sinh, những cơ thể yếu, có sức đề kháng kém, trẻ em, người bị đái tháo đường... Bệnh thường biểu hiện bằng những phỏng nước nhỏ sau đó hoá mủ. Những dịch của những nốt này có thể lan ra vùng xung quanh và gây ra chốc liên tiếp. Tùy thuộc vào mức độ tổn thương mà đó là bệnh chốc lây (nếu là tổn thương nông, hay chốc loét nếu là tổn thương sâu). Những tổn thương sâu thì thường để lại sẹo.
Với trẻ em, vào mùa hè, tại những ngấn sâu, nếp gấp sâu hoặc những người béo phì, da vùng này rất ẩm ướt sẽ có hiện tượng viêm da tại vùng nếp gấp được gọi là hăm kẽ. Biểu hiện của bệnh là da đỏ, rát, quầng lên tại những nếp gấp sâu. Hăm kẽ có một đặc điểm là không xuất hiện lây lan trên vị trí cơ thể khác. Do đó các bậc cha mẹ nên chú ý khi chăm sóc da trẻ sơ sinh mùa hè.
Mùa hè còn là mùa thuận lợi cho bệnh nấm da phát triển, tên thường gọi khác là hắc lào. Nấm hắc lào chính là những dòng nấm ưa nóng ẩm, rất dễ sinh trưởng ở môi trường ướt át như bẹn, mông, nách, ngấn bụng... Do đó bệnh chỉ xuất hiện ở những vùng này trước khi lan sang vùng da khác. Đặc điểm dễ nhận thấy nhất của bệnh đó: dạng tổn thương kiểu khép kín như hình tròn, hình tứ giác, ngũ giác, đa giác và chỉ có tổn thương ở chu vi mà da vùng chính giữa lại hoàn toàn bình thường. Tổn thương là các mụn nước nhỏ li ti, vô cùng ngứa. Sau khi gãi thấy rất xót và lan càng mạnh. Đám hắc lào cứ thế lan ra theo nhiều cách, rộng ra hoặc lan sang vùng da bên cạnh, hình thành nên một đám hắc lào mới

Nguy cơ không chỉ ở ngoài da
Nhiễm khuẩn huyết: Nguy cơ này ít nhưng thường trực nếu như các tổn thương ngoài da là rộng và dày đặc. Thường xuất hiện ở những vùng nhiều mạch máu như mép, miệng, mặt, cằm. Khi những nốt nhiễm khuẩn xuất hiện dưới dạng một “đinh râu” thì sẽ xuất hiện một hàng rào bảo vệ sinh học là các tế bào miễn dịch bao xung quanh và các dịch ngoại bào đầy kháng thể. Nếu nặn hút quá sớm, ngay từ khi quá trình viêm mới bắt đầu và cấp diễn, các hoạt động miễn dịch đang được huy động thì chúng ta dễ dàng phá vỡ hàng rào sinh học này. Vi khuẩn lợi dụng “vết nứt” trên, xâm nhập ồ ạt vào máu mà cơ thể không thể ngăn trở kịp gây ra nhiễm khuẩn huyết. Nhiễm khuẩn huyết là một biến cố nặng, nó có thể biến một nhiễm khuẩn ngoài da thành một nhiễm khuẩn thứ phát ở gan, tim, não và có thể gây tử vong, đặc biệt ở người già và trẻ em.
Nhiễm khuẩn các cơ quan khác: Da có thể khởi động tạo ra các viêm nhiễm ở màng tim, màng khớp, có thể gây ra viêm xương tủy xương. Việc gây ra những căn bệnh này là do vi khuẩn hoặc phức hợp kháng thể - kháng nguyên của vi khuẩn có thể xâm nhập vào cơ thể theo đường máu hoặc bạch huyết gây ra viêm tại các cơ quan có mô liên kết giống nhau như màng tim, màng khớp. Ở những đối tượng mà sức miễn dịch kém thì các vi khuẩn có thể theo đường máu tới định cư ở đầu các xương dài và gây ra bệnh viêm xương tủy xương. Các dạng tổn thương này càng hay gặp khi một nhiễm khuẩn da dai dẳng, ăn sâu và có thể lan tới cốt mạc xương.
Có thể là một nguyên cớ cho các bệnh liên quan đến miễn dịch như bệnh eczema hay bệnh lupus ban đỏ.
Xử trí thế nào?
Đứng trước một nhiễm khuẩn da, hai việc cần quan tâm ở đây là ngăn không cho nhiễm khuẩn lan rộng và “ăn” sâu. Để thực hiện hiệu quả cần thực hiện theo các biện pháp dưới đây.
Một là, không được cào cấu, gãi, nặn, chích hay bất kỳ một can thiệp cơ học nào vào vị trí tổn thương quá sớm. Việc cần làm đầu tiên đó là rửa nhẹ nhàng và vệ sinh sạch sẽ. Sau đó lau khô và bôi thuốc sát khuẩn lên bề mặt tổn thương như xanh metylen, hay cồn iốt hữu cơ.
Hai là, việc sử dụng thuốc kháng sinh cần được chỉ định chặt chẽ của bác sĩ.

Chú ý: Các thuốc bôi trên vết nhiễm khuẩn. Khi một vết thương đang sưng, đỏ, rắn thì chỉ được bôi các thuốc dạng nước như dung dịch cồn iốt. Khi các vết thương nhiễm khuẩn lâu liền đang chảy nước cũng chỉ được thấm dung dịch sát khuẩn lên bông gạc và che đậy vào tổn thương mà tuyệt đối không được bôi thuốc mỡ. Chỉ được bôi thuốc dạng kem và mỡ khi tổn thương đã khô và đóng vảy; khi tổn thương nhiễm trùng trên da dai dẳng hàng tuần hàng tháng mà không liền thì nhất thiết phải đi khám và được điều trị.

Trong những năm gần đây, dựa trên những nghiên cứu về căn sinh bệnh học, thương tổn cơ bản, tiến triển lâm sàng… người ta chia Luput ban đỏ thành 2 thể chính là: Luput ban đỏ dạng đĩa kinh diễn và Luput ban đỏ hệ thống.

Luput ban đỏ dạng đĩa kinh diễn
Đây là thể nhẹ của Luput ban đỏ. Bệnh chỉ có thương tổn ở da, không có thương tổn nội tạng. Cho đến nay người ta vẫn chưa hiểu rõ hoàn toàn căn sinh bệnh học của Luput thể này. Tuy nhiên, nhiều yếu tố có liên quan đến bệnh đã được đề cập như: di truyền, ánh nắng mặt trời, nhiễm khuẩn và đặc biệt là rối loạn miễn dịch tại chỗ. Tuy nhiên, vì không tìm thấy kháng thể kháng nhân trong huyết thanh, hơn nữa nồng độ bổ thể trong máu vẫn bình thường nên người ta cho rằng cơ chế bệnh sinh của Luput đỏ dạng đĩa và Luput đỏ hệ thống là khác nhau. Mặc dù vậy, theo một số nhà nghiên cứu, có khoảng 1 – 3% bệnh nhân bị Luput ban đỏ dạng đĩa kinh diễn trong quá trình tiến triển có thể chuyển thành Luput ban đỏ hệ thống.
Biểu hiện lâm sàng
Thương tổn da điển hình và hay gặp là các dát đỏ có vẩy dính khu trú ở những vùng hở như mặt, cổ, bàn tay… Các thương tổn này rất nhạy cảm với ánh nắng nên thường xuất hiện vào mùa hè.
Các thương tổn tiến triển lâu dài gây teo ở giữa (trông giống như các đĩa nên gọi là “dạng đĩa”). Một số thương tổn có thể quá sản phì đại.
Điều trị
Tại chỗ: bôi các thuốc có cocticoid như eumovate, diprosalic hoặc dermovate.
Toàn thân: các thuốc chống sốt rét có tác dụng rất tốt, song phải điều trị lâu dài nên cần phải theo dõi thị lực ít nhất 3 tháng/lần.

 Lupus ban đỏ.
Luput đỏ hệ thống
Luput đỏ hệ thống là một trong các bệnh tự miễn rất hay gặp ở phụ nữ trẻ tuổi. Bệnh gây thương tổn nhiều cơ quan nội tạng như: da, niêm mạc, gan, thận, khớp, tim, phổi, thần kinh…
Căn sinh bệnh học của Luput đỏ hệ thống rất phức tạp, do nhiều yếu tố tham gia. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, hai yếu tố chính, quan trọng nhất được cho là có liên quan trực tiếp đến bệnh là di truyền và rối loạn miễn dịch. Ngoài ra một số yếu tố khác có ảnh hưởng, làm xuất hiện hoặc làm bệnh nặng thêm, đó là: nội tiết, ánh nắng, nhiễm trùng. Một số thuốc như: hydralazine, isoniazide, sulfonamide, phenitoin, penicillamine có thể gây bệnh giống như Luput nên dễ chẩn đoán nhầm với Luput thực sự. Các thuốc tránh thai cũng có vai trò trong việc khởi động hay làm bệnh nặng thêm.
Triệu chứng của bệnh:
Biểu hiện toàn thân:  Trong giai đoạn tiến triển, bệnh nhân luôn có cảm giác mệt mỏi, chán ăn, gầy sút, sốt vừa phải.
Thương tổn da và niêm mạc: thường biểu hiện đầu tiên với các ban đỏ hình cánh bướm ở hai bên má. Các ban này rất nhạy cảm với ánh nắng. Sau một thời gian tiến triển, các thương tổn lan ra tay, chân, thân mình. Ngoài ra, các bọng nước, dát xuất huyết cũng có thể  xuất hiện. Niêm mạc miệng, hầu, họng loét nhưng không đau. Tóc vàng, khô, dễ gãy và rụng nhiều. Tuy nhiên, tóc có thể mọc lại khi lui bệnh.
Thương tổn nội tạng: rối loạn chức năng gan, thận, tiêu hóa. Có thể có viêm cơ tim, màng tim gây suy tim. Viêm phổi, màng phổi cũng hay gặp và có thể gây suy hô hấp.
Viêm khớp là một biểu hiện rất hay gặp làm cho bệnh nhân khó vận động và đi lại. Ngoài ra, có thiếu máu, có thể giảm cả 3 dạng: hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu.
Một số bệnh nhân có biểu hiện rối loạn phương hướng, tri giác, trí nhớ. Đôi khi có đau đầu dữ dội. Các triệu chứng tâm thần kinh có thể nặng thêm trong trường hợp dùng corticoid liều cao kéo dài.
Điều trị và theo dõi  bệnh:
Cần có một phác đồ điều trị đúng đắn tùy theo từng giai đoạn bệnh, đặc biệt phải duy trì chế độ thuốc và chế độ sinh hoạt, làm việc hợp lý kể cả khi bệnh đã ổn định.
Điều trị tại chỗ: Bôi các thuốc mỡ có cocticoid như eumovate, beprosalic, dermovate… Những bệnh nhân có hội chứng Raynaud cần có chế độ điều trị đặc biệt.
Điều trị toàn thân: Cocticoid vẫn là thuốc hàng đầu để điều trị Luput đỏ hệ thống. Liều lượng phải tùy theo từng giai đoạn bệnh. Tùy theo sự cải thiện  bệnh, có thể cứ 1-2 tuần giảm liều 10mg.
 Một số thuốc ức chế miễn dịch khác cũng được sử dụng và rất có hiệu quả như: azathioprin, cyclosporin, mycophenolate mofetil… Tuy nhiên khi sử dụng cần thận trọng vì có nhiều tác dụng không mong muốn. Cần được khám bệnh, có chỉ định điều trị và theo dõi của bác sĩ chuyên khoa da liễu.
Trong những năm gần đây, một số chất sinh học như: Inlicimab, Etanercept... cũng được sử dụng để điều trị Luput đỏ hệ thống và cho kết quả rất khả quan.
Một điều quan trọng cần lưu ý là phải điều trị các biến chứng nếu có.
Luput đỏ hệ thống và phụ nữ có thai
Phụ nữ bị Luput đỏ hệ thống cũng có thể mang thai và sinh con. Tuy nhiên, vì đây là bệnh hệ thống, tiến triển lâu dài và có thể nguy hiểm cho tính mạng nên cần phải được cân nhắc, tư vấn rất cẩn thận trước khi quyết định có thai.

Lý tưởng nhất là 6 tháng trước khi mang thai cần điều trị bệnh ổn định, không còn các triệu chứng ở các cơ quan nội tạng nữa. Trong thời kỳ mang thai, bệnh có thể tiến triển nặng lên, vì vậy bệnh nhân phải được theo dõi, điều trị nội trú trong các bệnh viện chuyên khoa để tránh các biến chứng cho cả mẹ và thai nhi. 

Ung thư da gồm nhiều loại u ác tính khác nhau xuất phát từ các tế bào biểu mô của da. Có nhiều loại ung thư da, nhưng ba loại thường gặp nhất là ung thư biểu mô tế bào đáy, ung thư biểu mô tế bào vảy và ung thư tế bào hắc tố.

Biểu hiện lâm sàng của các loại ung thư này cũng rất đa dạng. Nhưng điều quan trọng là khi có một thương tổn da lâu lành, nhất là khi có vết loét dai dẳng hoặc một đám sắc tố không đồng đều, phát triển bất thường thì chúng ta cần đến khám tại chuyên khoa da liễu.
 
Ung thư tế bào đáy
 
Là loại ung thư da hay gặp nhất chiếm khoảng 75% các loại ung thư da, nhưng thường chỉ xâm lấn tại chỗ, rất ít di căn xa. Nguồn gốc tế bào của loại ung thư này chưa rõ ràng. Biểu hiện là khối u nhỏ, hình tròn, hơi nổi cao, bóng (như hạt ngọc trai), trên có các mạch máu giãn, thâm nhiễm cứng, màu da bình thường hay có hiện tượng tăng sắc tố, có thể loét, dễ chảy máu, vị trí ở vùng da hở. Ung thư biểu mô tế bào đáy tiến triển chậm, xâm lấn tổ chức xung quanh gây biến dạng và làm rối loạn chức năng của một số cơ quan bộ phận như mũi, miệng và mắt. Nếu được phát hiện sớm và điều trị kịp thời cắt bỏ rộng thương tổn, tiên lượng của bệnh rất tốt.

 Phẫu thuật cắt bỏ nốt ruồi.
Ung thư biểu mô tế bào gai
Là loại u ác tính xuất phát từ các tế bào sừng của thượng bì. Ung thư biểu mô tế bào gai chiếm khoảng 20% các loại ung thư da, đứng thứ hai sau ung thư tế bào đáy. Ngoài khả năng xâm lấn tại chỗ các tế bào ung thư có thể di căn xa ở hạch hoặc các cơ quan khác. Mức độ di căn tùy thuộc vào kích thước và vị trí của thương tổn.
Tỉ lệ ung thư biểu mô tế bào gai khác nhau giữa các chủng tộc và vùng lãnh thổ. Thường ung thư này hay xuất hiện trên các thương tổn da có sẵn như các vết loét mạn tính, sẹo bỏng, một số bệnh da mạn tính. Ở Việt Nam hay gặp trên các bệnh nhân có hẹp bao qui đầu chưa được điều trị. Do đó, những người có hẹp bao qui đầu nên đi phẫu thuật cắt rộng bao qui đầu càng sớm càng tốt. Biểu hiện của ung thư biểu mô gai là những khối u sùi, thâm nhiễm cứng, chắc, màu hồng đến màu đỏ, loét dễ chảy máu, đóng vẩy tiết nâu đen. Phẫu thuật cắt bỏ hoàn toàn tổ chức ung thư ở giai đoạn sớm khi chưa có di căn giúp có một tiên lượng tốt. Nhưng nếu bệnh nhân đến muộn khi đã có di căn hạch thì tỉ lệ sống sau 5 năm rất dè dặt, đặc biệt là những thương tổn ở sinh dục, chân, tay, tai.
Ung thư tế bào hắc tố
Nếu bệnh nhân đến muộn khi đã có di căn hạch thì tỷ lệ sống sau 5 năm rất dè dặt, đặc biệt là những thương tổn ở sinh dục, chân, tay, tai.
Là một loại ung thư da ác tính của các tế bào hắc tố với tỉ lệ di căn và tử vong cao. Loại ung thư này thường gặp ở người da trắng và chiếm khoảng 5% các loại ung thư da.  Ung thư tế bào hắc tố có thể xuất hiện trên các nốt ruồi có từ trước, nhưng cũng có thể xuất hiện trên da hoàn toàn bình thường. Biểu hiện là các u hoặc đám tăng sắc tố không đều màu đen, nâu lẫn lộn, không đối xứng, phát triển nhanh trong thời gian ngắn, bờ khúc khuỷu, kích thước lớn hơn 0,6cm, có thể loét, di căn nhanh nhất là khi thương tổn được can thiệp ngoại khoa như dùng laser, plasma hay phẫu thuật không đúng cách. Trong trường hợp nghi ngờ, cần phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ thương tổn và làm xét nghiệm mô bệnh học để xác định chẩn đoán. Cắt sinh thiết chỉ nên thực hiện khi thương tổn quá rộng không thể phẫu thuật ngay lấy bỏ toàn bộ thương tổn. Tiên lượng của bệnh hoàn toàn phụ thuộc vào mức độ xâm lấn của các tế bào u. 95% bệnh nhân bị ung thư tế bào hắc tố thể nông bề mặt, sống trên 5 năm sau khi được phẫu thuật cắt bỏ khối u.
Ngoài ra, một số ung thư da khác ít gặp hơn như ung thư tế bào xơ, ung thư các tế bào nội mạc mạch máu, ung thư tế bào Merkel, ung thư tế bào tuyến bã.v.v. Chẩn đoán đôi khi gặp không ít khó khăn cần dựa vào kinh nghiệm của các bác sĩ lâm sàng và giải phẫu bệnh, đặc biệt là xét nghiệm hóa mô miễn dịch sử dụng một số markers đặc hiệu đóng vai trò quan trọng trong chẩn đoán xác định các loại ung thư này.
Các yếu tố nguy cơ gây ung thư thường gặp
Ánh sáng mặt trời (tia cực tím) là nguyên nhân chủ yếu gây ung thư da. Do vậy, ung thư da gặp nhiều ở những người da sáng màu và ở vùng nhiều ánh nắng. Đặc biệt như ở Úc tỉ lệ ung thư da cao là do bị thủng tầng ozon không ngăn cản được các tia cực tím của ánh sáng mặt trời.
 Những biến đổi về gen: Một số gen tham gia vào quá trình sửa chữa các tổn hại ở da do các yếu tố môi trường gây ra như gen p53, gen BRAF, gen “patched”, gen Hedgehog... Khi các gen này bị ức chế hoặc biến đổi thì khả năng sửa chữa không còn và dễ dẫn đến xuất hiện nhiều ung thư da.
Human papilloma virus (HPV): nhiều nghiên cứu thấy sự liên quan giữa ung thư da và virus gây sùi ở người (HPV). Các virus này thường liên quan đến ung thư biểu mô gai.
Các yếu tố khác: Một số yếu tố như nhiễm độc một số kim loại nặng (arsenic) cũng là nguyên nhân của ung thư da, nhất là ung thư biểu mô tế bào gai. Thuốc lá, hắc ín, các chất diệt cỏ, thuốc trừ sâu, cũng được nhiều nghiên cứu chứng minh là những nguyên nhân gây ung thư tế bào gai.
Chẩn đoán ung thư da
Có thể dựa vào các biểu hiện lâm sàng, nhưng để khẳng định chắc chắn thì phải làm xét nghiệm mô bệnh học và làm hóa mô miễn dịch trong các trường hợp khó. Đặc biệt với ung thư biểu mô gai đôi khi phải làm mô bệnh học nhiều lần và phải cắt sâu thương tổn khi có những thương tổn sùi tồn tại lâu thì mới phát hiện được tế bào ung thư.
Điều trị ung thư da

Nguyên tắc chung điều trị ung thư là loại bỏ sớm nhất toàn bộ tổ chức ung thư. Có nhiều biện pháp đã được áp dụng như phẫu thuật cắt bỏ rộng thương tổn, phẫu thuật cắt bỏ thương tổn có kiểm soát bằng giải phẫu bệnh (phẫu thuật Mohs), phẫu thuật lạnh, đốt bỏ thương tổn, xạ trị, hóa chất... Tùy từng trường hợp và hoàn cảnh cụ thể đối với từng trường hợp mà áp dụng các biện pháp điều trị khác nhau.

Thứ Sáu, 20 tháng 9, 2013

Viêm da tiếp xúc (VDTX) là phản ứng viêm da do tương tác giữa da và tác nhân tiếp xúc bên ngoài. Tỷ lệ bệnh VDTX khác nhau giữa các vùng địa lý, thời gian trong năm, giới tính, nghề nghiệp, lứa tuổi của bệnh nhân. Tại Việt Nam, bệnh VDTX chưa được thống kê đầy đủ, nhưng đây là một bệnh da hay gặp và có xu hướng ngày càng tăng.

 Các yếu tố ảnh hưởng
- Nồng độ chất tiếp xúc, cách thức tiếp xúc, thời gian, vị trí tiếp xúc.
- Tuổi của bệnh nhân: tuổi nhỏ dễ bị ảnh hưởng hơn.
- Các bệnh kèm theo.
- Yếu tố môi trường như nóng ẩm, tăng tiết mồ hôi.
Có 2 loại VDTX gồm: VDTX kích ứng và VDTX dị ứng.


Biểu hiện lâm sàng
VDTX kích ứng
- Loại này chiếm tới 80%, và gây tổn thương cho hầu hết những ai tiếp xúc với chất đó. Ví dụ: viêm da tiếp xúc kích ứng do phấn côn trùng, do acid, kiềm.
- Có trên 2800 chất gây kích ứng.
- Diễn biến bệnh có thể có 2 loại: cấp tính và mạn tính.
VDTX kích ứng cấp tính
- Xảy ra do tiếp xúc với hóa chất mạnh như acid và kiềm.
- Xuất hiện trong vài phút đến vài giờ sau khi tiếp xúc.
- Biểu hiện nhẹ: cảm giác châm chích, rát bỏng, da khô căng hoặc mày đay thoáng qua.
- Biểu hiện nặng: đỏ, phù nề, đau, mụn nước, bọng nước, mụn mủ, lột da, hoại tử.
- Giới hạn rất rõ, khu trú đúng ở nơi da tiếp xúc với chất kích ứng.
- Bệnh khỏi nhanh sau vài ngày hoặc vài tuần.
VDTX kích ứng mạn tính (hay còn gọi là VDTX kích ứng tích lũy). Đây là loại rất thường gặp.
Bệnh xuất hiện khi tiếp xúc nhiều lần, trong thời gian dài vài tuần, vài tháng, có thể vài năm tiếp xúc với chất kích ứng có nồng độ thấp như xà phòng, dầu gội, chất tẩy rửa …
Các yếu tố thuận lợi: cọ sát, sang chấn, ẩm ướt, v.v…
Biểu hiện da đỏ, bóc vảy, nứt nẻ, ngứa, lichen hóa;
Giới hạn của tổn thương da không rõ với da lành.
Viêm da bàn tay hay gặp ở nữ hơn do tiếp xúc với các chất kích ứng là xà phòng, chất tẩy rửa, đồ ăn… khi làm công việc nội trợ.
Viêm da tiếp xúc dị ứng
- Xảy ra ở những người đã có tiếp xúc với dị nguyên trước đó, có thể vài tuần, vài tháng, hoặc vài năm. Lúc đầu việc tiếp xúc này không gây ra triệu chứng gì, nhưng dần dần khi tiếp xúc nhiều lần sẽ gây tổn thương cho da.
- Xuất hiện muộn, thường sau khi tiếp xúc với dị nguyên 48-72 giờ.
- Biểu hiện lâm sàng:
• Cấp tính: ngứa, đỏ, phù, mụn nước, và tổn thương lan tỏa vượt quá vùng tiếp xúc.
• Mạn tính: ngứa, đỏ, trợt da, bong vảy, lichen hóa, giống VDTX kích ứng mạn tính.
Các tác nhân tiếp xúc
Các chất kiềm, axít, chất tẩy rửa, chất bảo quản, chất khử mùi…hay gây VDTX kích ứng.
- Kiềm: Có trong xà phòng, bột giặt, chất tẩy rửa.
Chất kiềm có khả năng xuyên thấm và phá huỷ sâu do làm tan chất sừng.
Viêm da bàn tay ở các bà nội trợ, công nhân nhà máy xà phòng hay do chất kiềm gây ra.
- Acid sulfuric, acid nitric, acid oxalic, acid chloric... gây VDTX nghề nghiệp
- Kim loại: đồng, thủy ngân, nickel, bạc, kẽm… VDTX dị ứng do kim loại hay gặp nhất là do nickel có ở đồ bằng kim loại như: dây đeo đồng hồ, cúc, khóa móc quần, thắt lưng…
- Các chất khác: bromine, chlorine, iodine, bụi kẽm, bụi vôi, bụi gỗ, bụi thuốc lá, potassium dichlomate trong thuộc da, xi măng…
- Các dung môi hoà tan chất dầu, dầu bôi trơn, dầu cắt công nghiệp…
- Dung môi bay hơi gây VDTX ở mũi, miệng, mặt, vùng da hở.
- Hương liệu, chất bảo quản có trong mỹ phẩm;
- P-phenylenediamine trong chất nhuộm tóc;
- Formaldehyde trong nhựa dán;
- Carbamix, thiramix, mercaptomix trong cao su tổng hợp;
- Thuốc bôi; hoá chất trừ sâu; nhựa cây; hoa, phấn hoa; quần áo…
- Một số hoạt chất gây VDTX do làm tăng nhạy cảm của da khi có sự tác động của ánh sáng mặt trời như Sulfonamide, Phenothiazine, Paraaminobenzoic acid, oxybenzone, 6-methyl coumarine.


 Hình ảnh viêm da do quai dép
Chẩn đoán
Chẩn đoán xác định dựa vào
- Lâm sàng: hình thái, cách sắp xếp và sự phân bố tổn thương ở các vị trí gợi ý cho chẩn đoán.
- Tiền sử cá nhân, đặc biệt là tiền sử các bệnh viêm da trước đó.
- Nghề nghiệp, sở thích, sử dụng mỹ phẩm, quần áo, đồ dùng cá nhân, môi trường nhà ở, thuốc bôi...
Chẩn đoán nguyên nhân, sử dụng các loại test sau đây:
-  Test kích thích:
Để xác định xem bệnh nhân có nhạy cảm với chất tiếp xúc không. Thường bôi chất nghi ngờ vào da ở mặt trong cẳng tay, ngày vài lần trong 7 ngày. Test này được áp dụng cả ở tuyến y tế cộng đồng để xác định nguyên nhân gây VDTX.
- Test áp dùng để chẩn đoán xác định căn nguyên gây viêm da tiếp xúc dị ứng. Loại test áp này chỉ thực hiện được ở các cơ sở có điều kiện xét nghiệm chuyên khoa.
Điều cần lưu ý là rất nhiều trường hợp viêm da tiếp xúc kích ứng cần phải được phân biệt với bệnh Zona. Sự khác biệt cơ bản ở chỗ bệnh Zona thường hay xuất hiện các mụn nước, bọng nước chỉ ở một vùng da chịu sự chi phối của dây thần kinh ngoại biên và chỉ giới hạn ở một bên của cơ thể. Bệnh nhân thường bị đau nhiều, đau sâu và rộng hơn vùng da có tổn thương. Trong khi đó, bệnh VDTX kích ứng thì tổn thương da xuất hiện ở bất kỳ vị trí nào có tiếp xúc và bệnh nhân thường chỉ có cảm giác rát bỏng nông trên bề mặt da bị tổn thương.
Việc phân định rõ ràng hai loại bệnh này rất quan trọng giúp định hướng điều trị đúng để tránh được việc điều trị nhầm rất hay gặp, nhất là tại các nhà thuốc/quầy thuốc, đó là dùng thuốc điều trị Zona cho trường hợp bị VDTX, gây việc sử dụng thuốc không cần thiết, lãng phí và kéo dài thời gian điều trị. Đồng thời, việc xác định đúng bệnh nhân bị bệnh Zona cũng giúp cho điều trị sớm tránh được những di chứng đau sau Zona, đặc biệt đối với người lớn tuổi.
Điều trị
- Ngừng ngay tiếp xúc với các tác nhân nghi ngờ. Nếu đã biết tác nhân gây bệnh thì loại bỏ các chất còn dư thừa trên da bằng cách rửa nước hoặc dùng các chất trung hoà, nhất là đối với trường hợp VDTX kích ứng do các hoá chất mạnh.
- Đắp dung dịch Jarish, nước muối sinh lý, nước thuốc tím loãng, nước lá khế vô khuẩn đối với trường hợp có tiết dịch, sưng nề nhiều.
- Thuốc bôi như Hồ nước, hồ Tetrapred, hoặc các loại kem có corticoid như: hydrocortisol, eumovate, locatop, beprosone, temprosone....
- Trường hợp nặng: Bệnh nhân có thể phải nằm viện điều trị.
Phòng bệnh
- Loại bỏ các chất tiếp xúc gây bệnh đã biết.
- Hạn chế dùng xà phòng, chất tẩy rửa; tránh tắm rửa quá mức để giữ lớp bảo vệ tự nhiên của da.
- Dùng kem bảo vệ thích hợp  trong các môi trường làm việc có tác nhân dễ gây VDTX.
- Thường xuyên bôi kem làm ẩm, nhất là sau khi làm việc để chống nứt, khô da, tránh sự xâm nhập của các chất kích ứng, có thể dùng các loại dầu thực vật, mỡ có sẵn tại gia đình.
- Dùng găng thích hợp khi làm việc trong môi trường có chất kích ứng để không cho hóa chất hay dung môi xuyên thấm vào da.
- Tư vấn nghề nghiệp thích hợp nhất là những trường hợp bị VDTX do nghề nghiệp.
- Có thể thử sự kích ứng/dị ứng của da đối với sản phẩm định dùng bằng cách bôi vào da ở mặt trong cẳng tay, dưới cằm hoặc lưng ngày 2 lần trong 7 ngày, nếu da không có phản ứng gì thì có thể dùng sản phẩm đó được.

Mụn trứng cá là một bệnh lý thường gặp với lưu hành khoảng trên 80-90% trong độ tuổi dậy thì, và cũng thường thấy sau độ tuổi thanh thiếu niên, người lớn trẻ, có khi kéo dài đến tuổi trung niên.

Mụn trứng cá là tình trạng viêm nhiễm ở nang lông tuyến bã, liên quan tới sự tăng tiết bã nhờn và sự hình thành nhân trứng cá.

Mụn trứng cá là một bệnh lý thường gặp với lưu hành khoảng trên 80-90% trong độ tuổi dậy thì, và cũng thường thấy sau độ tuổi thanh thiếu niên, người lớn trẻ, có khi kéo dài đến tuổi trung niên.
 Các tổn thương được hình thành do sự tăng tiết chất bã nhờn bị ứ đọng trong các nang lông bởi tình trạng bít tắc sự lưu thông của tuyến bã, đi kèm với tình trạng viêm nhiễm, thông qua sự phát triển của các vi trùng sinh mụn trong các đơn vị nang lông tuyến bã. Tất cả những hình ảnh trên chịu sự chi phối của rất nhiều thay đổi, từ các yếu tố có liên quan đến sự chuyển biến bên trong của cơ thể như: tuổi tác, di truyền, những thay đổi về nội tiết, hậu quả của việc sử dụng thuốc, cho đến các tác động có liên quan đến các yếu tố bên ngoài như: môi trường, khí hậu, thời tiết, hậu quả của stress, lo âu, mất ngủ, sử dụng thuốc bôi - mỹ phẩm không hợp lý... là những yếu tố có liên quan đến sự phát sinh mụn trứng cá, hay làm cho tình trạng bệnh trở nên trầm trọng hơn.    
Các thể nặng có thể cho biến chứng tại chỗ (sẹo) làm mất thẩm mỹ, ảnh hưởng nặng nề lên đời sống tình cảm, xã hội và nghề nghiệp của bệnh nhân. Thể rất nặng gây biến chứng toàn thân như nhiễm trùng huyết, phong thấp.
Ở Việt Nam, nhất là tại các tỉnh thành phố phía Nam, khu vực đồng bằng sông Cửu Long, việc sử dụng kem trộn hiện nay rất phổ biến, với nhiều mục đích: làm trắng, trị nám hay trị mụn trứng cá. Điều này không nên vì kem trộn có chứa chất corticoid, bôi lâu ngày sẽ nổi mụn nhiều hơn, kèm teo da dãn mạch.

 Điều trị mụn trứng cá bằng ánh sáng.
Sinh bệnh học của mụn trứng cá
Có nhiều yếu tố, nhưng có 4 nhân tố chính:
Tăng sinh thượng bì nang lông
Biểu mô của phần trên nang lông, vùng phễu, bắt đầu tăng sừng với gia tăng sự kết dính các tế bào sừng. Nút này gây nên chảy xuôi dòng các khối chất sừng, chất bã, vi khuẩn đến tích tụ tại nang lông, làm dãn phần trên của nang lông, tạo thành các cồi mụn nhỏ.
Sự sản xuất quá nhiều chất bã
Bệnh nhân mụn trứng cá sản xuất nhiều chất bã hơn người không bị mụn trứng cá. Cùng với sự hiện diện của một loại vi khuẩn trong bệnh mụn trứng cá là Propionibacterium acnes, gây nên hiện tượng viêm và tạo thành cồi mụn.
Các nội tiết tố androgen cũng có ảnh hưởng trên sự sản xuất chất bã, bằng cách kết hợp và ảnh hưởng lên hoạt tính của các tế bào bã tương tự như tác động trên các tế bào sừng ở phễu nang lông.
Hiện tượng viêm: Các cồi nhỏ liên tục giãn nở do sự tập trung dày đặc chất sừng, chất bã, vi khuẩn vào trong lớp bì gây nên đáp ứng viêm.
 Vai trò của Propionibacterium acnes. P.acnes giữ vai trò tác động trong tiến trình viêm, đây là một trực khuẩn Gram (+), yếm khí và hiếu khí nhẹ.
Các yếu tố liên quan đến sinh bệnh học mụn trứng cá
Các cá thể có nguy cơ cao phát triển mụn trứng cá bao gồm những người mang genotype nhiễm sắc thể XYY hoặc có các rối loạn nội tiết như hội chứng buồng trứng đa nang, cường androgen, tăng cortisol máu và dậy thì sớm. Những bệnh nhân này thường có mụn trứng cá nặng và không đáp ứng với các điều trị tiêu chuẩn.
Các dạng mụn trứng cá
Mụn trứng cá ở trẻ sơ sinh
Kem trộn có chứa chất corticoid, bôi lâu ngày sẽ nổi mụn nhiều hơn, kèm teo da dãn mạch.
Xảy ra vào khoảng trên 20% trẻ sơ sinh khỏe mạnh. Tổn thương thường xuất hiện vào khoảng 2 tuần tuổi và mất đi hoàn toàn trong vòng 3 tháng. Tổn thương căn bản là các sẩn hồng ban nhỏ ở mặt và cổ, thường thấy vắt ngang qua cầu mũi và ở hai gò má, không có hiện diện cồi mụn. Bệnh còn gọi là “bệnh mụn mủ ở đầu của trẻ sơ sinh”. Mụn trứng cá ở trẻ nhỏ
Xuất hiện ở độ tuổi 3-6 tháng và thường có sự hiện diện của cồi mụn. Sẩn, mụn mủ, nốt có thể cũng xuất hiện ở mặt và sẹo có thể xảy ra cho dù bệnh nhẹ.
Mụn trứng cá thông thường
Đa số trường hợp khởi phát tổn thương quanh độ tuổi dậy thì. Một số trường hợp khác có thể thấy từ tuổi sơ sinh hoặc trẻ nhỏ.
Cường androgen được nhận thấy ở các bệnh nhân nữ mà họ có mụn trứng cá nặng, khởi phát đột ngột, hoặc phối hợp với rậm lông hoặc chu kỳ kinh nguyệt không đều. Tăng sản tuyến thượng thận bẩm sinh, hội chứng buồng trứng đa nang và các rối loạn nội tiết khác liên quan với sự tăng quá mức androgen có thể thúc đẩy phát triển mụn trứng cá.
Mụn trứng cá thông thường đặc trưng bởi các cồi mụn, các sẩn, mụn mủ, nốt tại các vùng phân bố của tuyến bã (mặt, gò má, lưng, ngực, phần trên cánh tay).
Các tổn thương dạng cồi mụn là các tổn thương sớm của mụn trứng cá, không có hiện tượng viêm. Gồm 2 loại: cồi đóng (mụn đầu trắng) là tổn thương ở nang lông phẳng hoặc hơi nhô lên, màu sắc như da thường; và cồi mở (mụn đầu đen) là các tổn thương hơi nhô lên, trung tâm nang lông có màu đen do nêm chặt chất sừng và lipid.
Sẹo có thể là một biến chứng của cả hai dạng mụn trứng cá viêm và không viêm. Có 4 loại sẹo trong mụn trứng cá sẹo: sẹo hình phễu, sẹo đáy hình lòng chảo, sẹo đáy phẳng và sẹo phì đại.
Mụn trứng cá sẹo lồi
Là một dạng sẹo của viêm nang lông mạn tính mà bệnh cảnh là các sẩn và mụn mủ trên nền nang lông, dẫn đến các tổn thương dạng sẹo lồi.
 Mụn trứng cá cụm
Là một dạng nặng của mụn trứng cá đặc trưng bởi sự hóa hang,  các khối áp xe bên trong mô liên kết và các sẹo không đều (vừa lồi vừa teo). Cồi mụn thường nhiều, kèm các nang chứa chất dịch mủ mềm, các nốt. Vị trí thường thấy ở ngực, vùng bả vai, lưng, mông, vùng trên cánh tay, đùi và mặt.
 Hình ảnh mụn trứng cá cụm.
 Mụn trứng cá ác tính         
Còn gọi là mụn trứng cá loét và sốt cấp tính. Khởi phát đột ngột, nặng, thường gây loét, sốt, viêm đa khớp.
Bệnh hiếm gặp, thường thấy ở nam giới trẻ có tiền căn mụn trứng cá.
Hình ảnh lâm sàng giống như mụn trứng cá cụm, có rất nhiều các nốt viêm trên thân mình, lưng, ngực, không có ở mặt. Các nốt lớn hoặc các mảng viêm, tạo thành các vết loét đau với bờ nhô cao bao quanh các mảng hoại tử xuất tiết, lành để lại sẹo. Các nốt hồng ban tân sinh mạch máu có thể nhìn thấy.
Toàn thân có sốt, gan lách to và đau, có thể có hồng ban nút, thiếu máu, viêm đa khớp. Đau xương, đau khớp do viêm có thể từ một đến nhiều khớp, nhất là khớp háng, đầu gối, đùi. Bệnh nhân có mụn trứng cá ác tính và viêm nang lông dạng mụn trứng cá có thể có viêm xương-tủy xương đa ổ vô trùng.
Mụn trứng cá trầy xước ở phụ nữ trẻ
Bệnh cảnh rất thường gặp ở phụ nữ trẻ (khoảng 30 tuổi), thậm chí ở “các cô gái trẻ”. Bệnh liên quan với tình trạng lo âu, các rối loạn trầm cảm và hoang tưởng, rối loạn ám ảnh cưỡng bức, rối loạn nhân cách.
Bệnh nhân cào gãi và bóc gỡ các tổn thương (như cồi mụn, sẩn) có thể hiện diện với sự trầy xước thái quá, các vết lở có thể trở nên sâu xuống và tạo sẹo. Tổn thương có ưu thế quanh vùng chân lông, trán, vùng má phía trước tai, cằm.
Mụn trứng cá ở người trưởng thành
Là mụn trứng cá ở những người trên 25 tuổi, hay mụn trứng cá kéo dài (mụn trứng cá khởi phát trong độ tuổi dậy thì và tiếp tục nổi mụn kéo dài đến sau 25 tuổi) và mụn trứng cá khởi phát muộn.
Trứng cá ngoại sinh:
Thứ phát sau tác dụng trên da của các dầu vô cơ sinh nhân trứng cá “mụn dầu” hay bệnh trứng cá dầu ở đùi và cánh tay gặp ở thợ máy, chủ gara.
Thứ phát sau mỹ phẩm chứa những dầu thực vật hay vaseline.
Điều trị thế nào?
Việc điều trị mụn trứng cá cần áp dụng các nguyên tắc:
- Kiêng ngọt, giảm chất béo.
- Tôn trọng cấu trúc da. Không cắt, lể, nặn mụn không đúng phương pháp.
- Tránh sử dụng mỹ phẩm, corticoid bôi.
- Vệ sinh da, sạch, thoáng.
Hiện nay đã xác định rằng mụn trứng cá là một bệnh lý mạn tính, gây ra các hệ quả về thẩm mỹ và tâm lý, diễn tiến liên tục trong nhiều năm. Có rất nhiều bệnh cảnh lâm sàng của mụn trứng cá với hình ảnh đa dạng, diễn tiến theo mức độ từ nhẹ đến nặng. Bệnh không chỉ xảy ra trong lứa tuổi dậy thì mà hiện nay lại thấy có tần suất gia tăng ở người trưởng thành, nhất là ở phụ nữ thường kèm theo các rối loạn về nội tiết tố.
 Không dùng kem trộn, các loại kem có chứa chất corticoid để bôi lên mặt vì có nhiều biến chứng độc hại.
Tránh lo âu, thức khuya, mất ngủ.
Sử dụng thuốc điều trị cần có sự chỉ dẫn của bác sĩ chuyên khoa Da liễu.
Vì mụn trứng cá có thể để lại biến chứng sẹo xấu cho nên người bệnh cần điều trị sớm và cẩn thận.
Chế độ ăn cần hạn chế đường, mỡ. Nên ăn nhiều rau, trái cây ít ngọt, tập thể dục thể thao đều đặn, chế độ làm việc không quá căng thẳng sẽ góp phần hạn chế sự bùng phát các tổn thương mụn trứng cá và cải thiện chức năng của da.

Thời tiết nắng nóng đột ngột khiến cho số bệnh nhân nhập viện vì các bệnh ngoài da tăng đột biến. Mới đầu mùa hè mà Trung tâm Dị ứng - Miễn dịch lâm sàng (Bệnh viện Bạch Mai) hằng ngày đã phải tiếp rất nhiều bệnh nhân đến khám với triệu chứng mẩn ngứa khắp người. Và nguyên nhân lại là…

Vào viện chỉ vì … gãi
BS. Nguyễn Hữu Trường, Trung tâm Dị ứng - Miễn dịch lâm sàng (Bệnh viện Bạch Mai) cho biết, số lượng bệnh nhân mắc các bệnh ngoài da như viêm da cơ địa, viêm da thần kinh đến khám chữa bệnh thời gian này tăng đáng kể. Nguyên nhân chính là do thời tiết trong giai đoạn giao mùa, nắng nóng xảy ra đột ngột, cường độ ánh nắng mạnh, cơ thể ra nhiều mồ hôi nên các bệnh mạn tính ngoài da thường bị nặng lên rõ rệt.
Đáng nói, một số trường hợp đến thăm khám bị ngứa “đóng cục”, vết cũ chưa khỏi thì vết mới đã xuất hiện. Những bệnh nhân này thường làm việc trong môi trường bị ô nhiễm, không kiêng kỵ được dẫn đến tổn thương kéo dài. Anh Nguyễn T.L, (Hai Bà Trưng, Hà Nội) 5 ngày hôm nay, bị ngứa ở cổ, phần bụng gần bẹn. Theo thói quen, ngứa thì gãi, các vết ngứa rộng dần, tưởng gan bị nóng, anh L. uống thuốc mát gan, bột sắn, uống thuốc đông y mà cũng không khỏi. Cuối cùng, anh tìm đến Trung tâm Dị ứng - Miễn dịch lâm sàng (Bệnh viện Bạch Mai). Ở đây, anh được chẩn đoán là bị viêm da thần kinh.
Trường hợp ông Trịnh Văn T. ở Định Công, Hà Nội cũng vậy. Ông kể không hiểu sao cứ đến mùa hè là bị ngứa khắp người, đặc biệt là khuỷu tay, phía dưới đùi và các vùng bị cọ xát. Ban đầu ông tự ý đi mua thuốc về uống, bôi, nhưng không đỡ, các nốt xuất hiện chồng lên nhau và vết ngứa đã đóng thành mảng. Do công việc phải tiếp xúc thường xuyên với nước, không giữ vệ sinh sạch sẽ nên mỗi ngày ông lại bị ngứa thêm. Ông T. đến Trung tâm Dị ứng - Miễn dịch lâm sàng khám khi vết ngứa đã sần sùi, lở loét.

Vì sao lại bị viêm da?
BS. Nguyễn Hữu Trường, Trung tâm Dị ứng - Miễn dịch lâm sàng (Bệnh viện Bạch Mai) cho biết, da là một cơ quan đặc biệt, bao phủ hầu hết bề mặt của cơ thể và tiếp xúc trực tiếp với môi trường sống nên rất dễ bị tổn thương bởi các tác nhân kích thích từ bên ngoài. Các bệnh lý viêm da không do nhiễm khuẩn (còn được gọi là chàm  hoặc eczema) là một trong những biểu hiện bệnh lý ở da thường gặp nhất. Đây là một nhóm gồm nhiều loại bệnh với các nguyên nhân khác nhau, đặc trưng bởi tình trạng viêm nông trên bề mặt của da, gây ra các biểu hiện ngứa, nề đỏ, nổi mụn nước, khi vỡ gây tiết dịch và đóng vảy. Các dạng viêm da hay gặp nhất là viêm da tiếp xúc, viêm da cơ địa, viêm da dầu, viêm da thần kinh, tổ đỉa và đỏ da toàn thân. Biến chứng thường gặp nhất của tất cả các thể viêm da này là dày da do gãi nhiều và nhiễm trùng tại các vết trợt loét do vệ sinh kém. Về nguyên nhân, viêm da chính là một phản ứng của da trước các yếu tố kích thích từ môi trường bên ngoài như nhiệt độ quá nóng hoặc quá lạnh, các sang chấn cơ học và hóa học trên da hoặc các loại kháng nguyên gây dị ứng cho da.
Mặc dù các bệnh viêm da không do nhiễm khuẩn đều không nguy hiểm đến tính mạng người bệnh và không lây lan nhưng thường diễn biến rất dai dẳng và gây ra khá nhiều phiền toái cho người bệnh.
Viêm da thần kinh gây ra do tình trạng gãi hoặc chà xát kéo dài tại một vị trí. Bệnh thường xảy ra ở những người trong độ tuổi từ 20 - 50. Nguyên nhân đầu tiên gây ngứa thường do viêm da tiếp xúc, nhiễm nấm hoặc ký sinh trùng, nhưng sau khi nguyên nhân đã được giải quyết, người bệnh vẫn tiếp tục gãi ở vị trí cũ (có thể do yếu tố tâm lý). Bản thân động tác gãi có thể làm ngứa tăng lên và càng thúc đẩy người bệnh gãi, hậu quả là làm cho vùng da tại chỗ trở nên dày và nâu sạm (liken hóa). Những đám da này có ranh giới tương đối rõ, thường nằm ở da đầu, cổ, cổ tay, vai, cánh tay và cổ chân.
 Hạn chế gãi để tránh tình trạng viêm da nặng thêm.
Làm sao để phòng tránh?
BS. Nguyễn Hữu Trường khẳng định, việc điều trị các bệnh lý viêm da thường gặp nhiều khó khăn và mất nhiều thời gian. Cắt ngắn móng tay, mang găng cao su và hạn chế tối đa động tác gãi là điều hết sức quan trọng. Các loại kem hoặc mỡ cortisteroid bôi tại chỗ có tác dụng tốt giúp làm mềm da. Sử dụng các thuốc an thần hoặc gây ngủ có thể giúp giảm động tác gãi khi ngủ.
BS. Nguyễn Hữu Trường khuyên, khi thời tiết nóng bức người dân nên chủ động phơi hong chăn màn, giường chiếu, quần áo và các vật dụng khác trong gia đình để côn trùng không còn nơi trú ngụ. Giữ vệ sinh cá nhân, trời nóng nên tích cực rửa chân tay bằng nước sạch tránh để mồ hôi trên người quá lâu cũng có thể gây ngứa, nhất là các bệnh nhân có tiền sử ngứa theo mùa. Đồng thời, vệ sinh không gian nhà cửa thoáng mát, sạch sẽ, không nên để các chậu cây cảnh um tùm lá, ẩm ướt trong nhà vì đó cũng có thể là nguồn khởi phát bệnh tật, ruồi muỗi gây bệnh… Bên cạnh đó, mọi người nên uống nhiều nước, ăn hoa quả để tăng cường sức đề kháng cho cơ thể.
Với những bệnh nhân đã được khám cần dùng thuốc và thăm khám lại theo đúng chỉ dẫn của bác sĩ. Khi có những triệu chứng khác lạ phải lập tức báo lại cho bác sĩ để có cách điều trị đúng, kịp thời. 

Bệnh vẩy nến (Psoriasis) được biết đến từ thời thượng cổ và là một trong những bệnh da rất hay gặp ở Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới.

Theo thống kê, tỷ lệ bệnh vẩy nến khác nhau tùy từng vùng, từng châu lục, song nó dao động trong khoảng 1-3% dân số. Mặc dù đã được nghiên cứu từ lâu, song cho đến nay nguyên nhân và sinh bệnh học của bệnh vảy nến vẫn còn nhiều điều chưa sáng tỏ. Trong những năm gần đây, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng bệnh liên quan đến rối loạn miễn dịch và yếu tố di truyền. Ngoài ra một số yếu tố có ảnh hưởng, kích thích và làm bệnh tiến triển nặng thêm cũng được đề cập. Đó là các yếu tố: Stress, nghiện bia, rượu, thuốc lá, nhiễm trùng, rối loạn nội tiết, rối loạn chuyển hóa, khí hậu, môi trường…

Một điều khẳng định chắc chắn là bệnh vẩy nến không phải là bệnh lây nhiễm như bao người nhầm tưởng.

Biểu hiện của bệnh vẩy nến là gì?
- Thương tổn da: Hay gặp và điển hình nhất là các dát đỏ có vẩy trắng phủ trên bề mặt, vẩy dày, có nhiều lớp xếp chồng lên nhau rất dễ bong và giống như giọt nến (Vì vậy có tên gọi là “Vẩy nến”). Kích thước thương tổn to nhỏ khác nhau với đường kính từ 1- 20cm hoặc lớn hơn.
Vị trí điển hình nhất của các dát đỏ có vẩy là vùng tì đè, hay cọ xát như: khuỷu tay, đầu gối, rìa tóc, vùng xương cùng, mông. Tuy nhiên sau một thời gian tiến triển các thương tổn có thể lan ra toàn thân.
- Thương tổn móng: Có khoảng 30% - 40% bệnh nhân vẩy nến bị tổn thương móng tay, móng chân. Các móng ngả màu vàng đục, có các chấm lỗ rỗ trên bề mặt. Có thể móng dày, dễ mủn hoặc mất cả móng.
- Thương tổn khớp: Tỷ lệ khớp bị thương tổn trong vẩy nến tùy từng thể. Thể nhẹ, thương tổn da khu trú, chỉ có khoảng 2% bệnh nhân có biểu hiện khớp. Trong khi đó ở thể nặng, dai dẳng có đến 20% bệnh nhân có thương tổn khớp. Biểu hiện hay gặp nhất là viêm khớp mạn tính, biến dạng khớp, cứng khớp, lệch khớp, bệnh nhân cử động đi lại rất khó khăn… Một số bệnh nhân thương tổn da rất ít nhưng biểu hiện ở khớp rất nặng, đặc biệt là khớp gối và cột sống.

Vẩy nến có bao nhiêu thể?
Tùy theo tính chất, đặc điểm lâm sàng, người ta chia vẩy nến làm 2 thể chính: Thể thông thường và thể đặc biệt.
Trong thể thông thường, dựa vào kích thước, vị trí của thương tổn da, người ta phân làm các thể như: Thể giọt, thể đồng tiền, thể mảng, vẩy nến ở đầu, vẩy nến đảo ngược, …
Thể đặc biệt ít gặp hơn nhưng nặng và khó điều trị hơn. Đó là các thể: Vẩy nến thể mủ, vẩy nến thể móng khớp, vẩy nến thể đỏ da toàn thân.
Bệnh tiến triển trong bao lâu?
Bệnh vẩy nến tiến triển lâu dài, nhiều đợt. Có khi sau một thời gian điều trị, bệnh ổn định, nhưng nếu không duy trì chế độ điều trị, sinh hoạt, làm việc hợp lý thì các thương tổn lại tái phát.
Điều trị bệnh vẩy nến như thế nào ?
Cho đến nay chưa có một phương pháp nào đặc hiệu để điều trị khỏi hoàn toàn bệnh vẩy nến. Tuy nhiên trong những năm gần đây nhiều thuốc mới đã được áp dụng để điều trị toàn thân và tại chỗ có tác dụng rất tốt, bệnh ổn định lâu dài.
Điều trị tại chỗ: Bôi các thuốc sau đây:
+ Mỡ Salicylé 2%, 3%, 5% có tác dụng bong vẩy, bạt sừng.
+ Mỡ Corticoid : Eumovate, Diprosalic, … có tác dụng chống viêm rất tốt, thương tổn mất rất nhanh. Tuy nhiên không nên lạm dụng bôi nhiều và dài ngày vì sẽ gây biến chứng làm bệnh nặng thêm.
+ Mỡ có Vitamin A axit như: Differin, Isotrex, Erylick...: Có tác dụng bình thường hóa quá trình sừng hóa của da.
 Biều hiện ở bệnh nhân vẩy nến
Điều trị toàn thân:
Có thể dùng các thuốc sau đây:
+ Vitamin A axit: Soritane, Tigasone...
+ Methotrexate.
+ Cyclosporin...
Các thuốc này có tác dụng rất tốt, nhưng có nhiều tác dụng phụ như có thể gây quái thai, hạ bạch cầu, rối loạn chức năng gan, thận, ... Vì vậy cần được chỉ định đúng và theo dõi nghiêm ngặt trong quá trình điều trị.
- Corticoid và bệnh vẩy nến: Các Corticoid dùng đường uống (Prednisolone, Medrol...) hoặc tiêm tĩnh mạch (Methylprednisolone) đều có tác dụng tốt, nhanh. Nhưng chỉ nên áp dụng cho một số trường hợp đặc biệt trong một thời gian ngắn và phải được chỉ định của bác sĩ chuyên khoa. Nếu lạm dụng dùng liều cao kéo dài bệnh sẽ tái phát nặng và có thể gây nhiều biến chứng trầm trọng.
Trị liệu bằng ánh sáng (Phototherapy)
Có thể phối hợp các phương pháp trên với chiếu tia cực tím có bước sóng khác nhau (UVA, UVB) cũng có kết quả rất tốt và kéo dài thời gian ổn định bệnh.
Đặc biệt hiện nay phương pháp PUVA (Psoralene Ultraviolet A) đang được áp dụng để điều trị bệnh vẩy nến các thể khác nhau và có kết quả rất khả quan.
Phương pháp sinh học (Biotherapy)
Trong những năm gần đây người ta đã tổng hợp được nhiều chất sinh học có tác dụng tốt trong điều trị bệnh vẩy nến như: Efanecept, Alefacept, Efalizumab,... Nhiều nước như Mỹ, Anh, Pháp, Úc... đã áp dụng phương pháp này và đạt kết quả tốt. Tuy nhiên phương pháp này vừa đắt tiền  vừa có một số tác dụng phụ nên chưa được áp dụng rộng rãi ở Việt Nam.
Tư vấn:
Một điều vô cùng quan trọng là trong quá trình điều trị cần phải tư vấn cho bệnh nhân. Vì tiến triển của bệnh vẩy nến thất thường, dai dẳng nên cần khuyên bệnh nhân không được lơ là, tự động bỏ thuốc khi thấy thương tổn đã giảm. Hướng dẫn bệnh nhân tuân thủ chế độ điều trị theo từng giai đoạn bệnh, đồng thời phải hạn chế bia, rượu, thuốc lá, tránh các stress và điều trị triệt để các bệnh mạn tính khác nếu có. Có như vậy mới tránh được các biến chứng và bệnh sẽ ổn định lâu dài.

Không ít bệnh nhân đã tốn nhiều tiền bạc, công sức chữa trị vảy nến nhưng bệnh ngày càng nặng. Trường hợp của bà Nguyễn Thị S. (SN 1953) mà chúng tôi ghi lại sau đây là một trong những bệnh nhân may mắn tìm “đúng thầy đúng thuốc” sau một thời gian dài chống chọi với vảy nến.


Bà S. kể: Hành trình chữa bệnh vảy nến là những tháng ngày buồn bã và mất phương hướng nhất của tôi. Tôi được chẩn đoán bị vảy nến thể giọt, mới đầu là những nốt đỏ nhỏ mọc thành đám ở vài nơi. Tôi đi khắp các bệnh viện lớn nhỏ, thầy này chữa không đỡ lại tìm thầy khác nhưng bệnh ngày càng nặng thêm. Toàn thân tôi, trừ lòng bàn tay, bàn chân và mặt là không bị, còn lại đỏ rực; các nốt này làm tôi luôn bứt rứt, ngứa ngáy khó chịu. Có một thời gian, tôi đi chữa tư nhân, mỗi mũi tiêm cả trăm nghìn, tiêm vào là bệnh giảm ngay, nhưng sau đó tái phát nặng hơn, chân tay, mặt mũi bị phù hết cả lên, trông rất sợ.

Bệnh tật làm tôi tự ti, mặc cảm vô cùng. Suốt ngày tôi phải mặc quần áo dài, dù vào mùa hè, thời tiết nóng nực  đến mấy. Chẳng bao giờ tôi dám đi du lịch hay tắm biển, địa phương có hội hè gì cũng không dám tham gia. Tôi bán hàng ăn uống nên càng ngượng. Lúc bị nặng quá, tôi phải nghỉ làm để trông cháu. Thế cũng chưa hết, đi trông cháu thì chỉ sợ lây sang con cháu nên cái gì cũng phải dùng riêng,… Mỗi lần tắm gội, nhìn cơ thể chi chít những nốt đỏ rực, tôi lại cảm thấy chán chường, chỉ nghĩ muốn đi đâu thật xa để không ai biết đến mình, khỏi phải khổ con cháu. Nhưng thật may, một lần con gái tôi đọc trên cuốn tạp chí nói đến sản phẩm có hiệu quả cao trong việc chữa trị vảy nến, đó là Kim Miễn Khang. Các con tôi rất lo lắng cho bệnh của mẹ nên đứa nào cũng tìm hiểu mọi thông tin để giúp tôi chữa trị. Con tôi còn lên mạng Internet tìm hiểu, quả nhiên thấy rất nhiều người dùng Kim Miễn Khang hiệu quả. Vậy là tôi quyết định tìm mua về sử dụng.
Tôi uống Kim Miễn Khang đều đặn 8 viên, chia 2 lần mỗi ngày, trước bữa ăn 30 phút. Thật kỳ diệu, căn bệnh tưởng như bất trị của tôi bắt đầu có chuyển biến. Đến tuần thứ 3, các nốt đỏ bắt đầu thâm lại. Hết 4 tuần, các vết thâm mờ đi, không mọc thêm nốt nào mới. Sau hai tháng thì bệnh chuyển biến rõ rệt, các nốt mất dần đi, hết sẹo, không còn làm tôi ngứa ngáy, khó chịu nữa. Bây giờ, tôi bỏ hết các thuốc tây y, chỉ dùng sản phẩm này thôi.
Đặc biệt, tôi ăn ngủ khỏe hơn. Trước kia, cố gắng lắm tôi cũng chỉ được lưng bát cơm, lại phải kiêng khem đủ thứ. Chỉ cần ăn một miếng thịt gà hay quả trứng là lập tức toàn thân tôi lại nổi đỏ chi chít. Giờ thì tôi ăn được vài ba bát cơm mỗi bữa, đôi lúc cũng ăn quả trứng rán nhưng không thấy nốt mới nổi lên. Vui nhất là giờ tôi không còn bi quan như trước, các con thấy mẹ đỡ thì cũng rất mừng, chúng chia nhau mua Kim Miễn Khang cho mẹ.

Thứ Tư, 18 tháng 9, 2013

Da người là “đất sống” của nhiều loài vi khuẩn, thậm chí  cả nấm và kí sinh trùng. Loại vi khuẩn thường gặp nhất là tụ cầu (staphylococcus) và liên cầu (streptococcus). Bình thường các vi khuẩn này không gây bệnh ở da, nhưng khi gặp điều kiện thuận lợi như cơ thể bị suy yếu, vệ sinh da kém, môi trường nóng nực, ngứa gãi, bị chấn thương ở da, bị bệnh đái tháo đường v.v... thì các vi khuẩn này sẽ tăng độc tính và gây ra tình trạng nhiễm trùng trên da.

 Bệnh chốc                   
Chốc là bệnh nhiễm trùng nông trên da biểu hiện bằng các dát đỏ, bọng nước. Bệnh do liên cầu, tụ cầu hoặc phối hợp cả hai gây nên, gặp ở mọi lứa tuổi, nhưng 90% trường hợp là ở lứa tuổi nhà trẻ, mẫu giáo.
Biểu hiện bệnh bắt đầu là các dát đỏ xung huyết trên da, nhanh chóng tạo thành bọng nước nhăn nheo, xung quanh có quầng đỏ. Sau vài giờ từ đáy bọng nước xuất hiện mủ đục từ thấp lên cao,  dễ dàng dập vỡ, đóng vảy tiết màu vàng nâu giống màu mật ong. Ở da đầu, vảy tiết làm tóc bết lại. Khoảng 7-10 ngày sau, vảy tiết bong đi để lại dát hồng hoặc dát thâm, tồn tại một thời gian ngắn, mất đi không để lại sẹo. Vị trí thường gặp ở  mặt, nhưng có thể bất kì chỗ nào kể cả lòng bàn tay, chân, hiếm khi thấy ở niêm mạc nhưng cũng có thể có.
Toàn thân:  rất hiếm khi sốt, trừ trường hợp thương tổn chốc toàn thân hoặc có biến chứng. Bệnh nhân có thể ngứa gãi làm thương tổn lan rộng, chàm hóa hoặc lan sang vùng da khác.
Căn nguyên, bệnh sinh
Từ các sang chấn nhỏ trên da, vi khuẩn sẽ xâm nhập qua da vào lớp sừng và lớp gai, nhân lên, rồi tiết độc tố làm tan rã các cầu nối liên kết giữa các tế bào gai, huyết thanh tụ lại tạo thành bọng nước dư­ới lớp sừng.
Các yếu tố như tuổi nhỏ, thời tiết nóng ẩm, mùa hè, nơi ở chật chội, vệ sinh kém là những điều kiện thuận lợi cho bệnh phát triển. Ngoài ra, các yếu tố  như bị chấy, rận, ghẻ, herpes, côn trùng cắn, viêm da cơ địa... cũng làm cho bệnh dễ phát sinh và phát triển.
Tiến triển
Chốc là bệnh lành tính. Nếu phát hiện và điều trị tích cực thì khoảng 7-10 ngày là khỏi, ít có tái phát và biến chứng, nhưng nhiều bệnh có thể tiến triển dài hơn và có các biến chứng từ nhẹ đến nặng như chàm hóa, viêm phổi, cầu thận cấp, chốc loét, nhiễm trùng huyết....
Điều trị
- Tại chỗ: Làm bong vảy tiết bằng đắp dung dịch NaCl 9 phần ngh hay thuốc tím 1/10.000 hoặc dung dịch Jarish. Nếu vảy dày dùng mỡ kháng sinh. Khi vảy tiết đã bong đi, chấm vào tổn thương dung dịch sát khuẩn có màu như  milian hoặc castellani.
- Toàn thân: dùng kháng sinh nhóm β-lactam, cephalosporine, macrolid, quinolone, kháng sinh penicilline bán tổng hợp khi  thương tổn lan rộng, nặng, dai dẳng và có nguy cơ biến chứng viêm cầu thận cấp, chốc loét, nhiễm trùng huyết....
Phòng bệnh
Tắm rửa vệ sinh ngoài da, cắt tóc, cắt móng tay. Chăm sóc cho trẻ nhỏ, nhất là sau khi mắc các bệnh do virus hoặc sởi. Tránh ở lâu những nơi ẩm thấp, thiếu ánh sáng. Điều trị sớm và tích cực, tránh chà xát, gãi nhiều gây biến chứng.

 Khám bệnh ngoài da cho bệnh nhân.
Bệnh viêm nang lông
Là phản ứng viêm của một hoặc nhiều nang lông ở bất kì vị trí nào trên cơ thể, trừ vùng bán niêm mạc và lòng bàn tay, bàn chân. Nếu viêm nang lông xảy ra ở những vùng có lông tóc dài như  đầu, râu, lông nách, lông mu thì gọi là viêm chân tóc hay sycosis. Nếu thương tổn ở những vùng lông nhẵn thì gọi là viêm nang lông.
Biểu hiện
Viêm nang lông có thể biểu hiện lâm sàng khác nhau tùy theo vị trí tổn thương nang lông nông hay sâu.
- Viêm nang lông nông, viêm cổ nang lông: mụn mủ nhỏ như hạt kê rất nông ở lỗ chân lông, màu vàng nhạt, dễ vỡ để lại vảy mủ hoặc vảy lẫn máu. Bệnh diễn biến thành từng đợt và tự lành sau vài ngày, không để lại sẹo. Vị trí điển hình là ở mặt, da đầu, lông mu, lông nách, nếp bẹn, hai cẳng chân.
- Viêm nang lông sâu: viêm xâm lấn vào tận cấu trúc nang, khi khỏi có thể tạo thành sẹo lồi hay sẹo teo da, rụng tóc.
Căn nguyên
Phần lớn viêm nang lông là do tụ cầu vàng ký sinh ở trên da, trên các lỗ chân lông, nhưng có thể do một số vi khuẩn khác như vi khuẩn gram âm, Enterobacter klebsiella, Proteus, Pseudomonas aeruginosa hay do nấm men (Candida hay pityrosporum), nấm sợi hoặc virus.
Điều trị
- Tại chỗ: Không được nặn mụn mủ, nên chấm tổn thương bằng dung dịch cồn iot 5% hoặc dung dịch betadin.
- Toàn thân:  Có thể uống kháng sinh nhóm β-lactam, cephalosporine, macrolid.
Phòng bệnh
- Loại bỏ chấn thương tại chỗ bằng cách không gãi, không chà xát; không mặc quần áo quá chật; tránh xây xước khi cạo râu...
- Điều trị các bệnh phối hợp như đái tháo đường, giảm miễn dịch....
- Rửa tay thường xuyên, giặt quần áo bằng xà phòng tiệt khuẩn.
- Vệ sinh đúng cách để dự phòng tổn thương lan tỏa và tồn lưu. Nếu tổn thương ở vùng râu thì phải thay dao cạo và cách cạo râu.
Nhọt
Tắm rửa vệ sinh ngoài da, cắt tóc, cắt móng tay. Chăm sóc cho trẻ nhỏ, nhất là sau khi mắc các bệnh do virus hoặc sởi. Tránh ở lâu những nơi ẩm thấp, thiếu ánh sáng.
Là thuật ngữ dùng để chỉ khi viêm nang lông sâu, viêm quanh nang lông và hoại tử vùng trung tâm nang lông tạo nên ngòi màu vàng. Nhọt rất thường gặp và có thể xuất hiện bất cứ trên vùng nang lông nào của cơ thể, tuy nhiên vị trí thường gặp nhất là mặt, cổ, hố nách, mông, đùi và những vùng da băng ẩm kéo dài.
Biểu hiện lâm sàng
Nhọt có thể biểu hiện lâm sàng bằng nhiều hình thái khác nhau và tùy theo từng hình thái mà bệnh nhân có triệu chứng toàn thân hay không.
- Nhọt: Tổn thương ban đầu là cục cứng, đỏ, nóng, đau, khu trú ở nang lông, ở giữa có một đốm trắng còn gọi là “ngòi”. Vị trí thường gặp là vùng có lông, đặc biệt vùng cọ sát hoặc ra mồ hôi nhiều như cổ, nách, mông. Sau vài ngày nhọt trở nên mềm hơn, giảm đau và giảm sưng nóng đỏ. Khi vùng trung tâm nhọt mềm hơn, màu thẫm hơn và hơi bùng nhùng (nhọt “chín”) thì nhọt sẽ vỡ mủ, “ngòi” thoát ra ngoài để lại trên nền thâm nhiễm một lỗ nhỏ, dần dần lên da non và lành sẹo.
Đa số bệnh nhân chỉ có 1 đến 2 nhọt. Tuy nhiên cũng có người có nhiều nhọt (5-7 cái).
Nhìn chung nhọt không có triệu chứng toàn thân. Những người có nhiều nhọt hoặc nhọt ở trẻ em có thể kèm theo sốt, albumin niệu.
- Nhọt cụm: là do nhiều nhọt tập trung thành đám tạo thành “tập đoàn” nhọt hay cụm nhọt. Trường hợp này tổn thương thường viêm nặng hơn, lan rộng hơn và thâm nhiễm sâu hơn. Vị trí nhọt cụm thường ở gáy, lưng, đùi. Khi cụm nhọt xuất hiện ở gáy, lưng thì được gọi là “hương sen” hoặc “hậu bối”. Bệnh nhân thường có sốt, đau đầu, mệt mỏi và rất đau, có thể có albumin niệu.
- Bệnh nhọt: là chỉ một người bị nhọt với số lượng nhiều tái đi tái lại nhiều lần hàng tháng, có khi hàng năm không khỏi.
- Đinh râu: cũng là nhọt nhưng khu trú chủ yếu ở vùng có râu và vùng “bát úp” quanh miệng, chóp mũi. Đinh râu có thể đưa đến viêm xoang tĩnh mạch hang và nhiễm trùng huyết, áp xe não, viêm nội tâm mạc cấp, viêm xương - tủy xương...  do vùng này có mạng mạch máu, mạch bạch huyết rất phong phú và liên kết với hệ thống mạch não, vì thế đây là một cấp cứu cần được phát hiện và xử trí kịp thời.
Nguyên nhân gây bệnh nhọt và các yếu tố nguy cơ
- Tác nhân chủ yếu gây ra nhọt là tụ cầu vàng (staphylococcus aureus). Tuy nhiên,  nhọt cũng có thể gây nên do các vi khuẩn khác như vi khuẩn gram âm, proteus, pseudomonas aeruginosa... hoặc nấm. 
Da bị tổn thương do chà xát, cào gãi hoặc tăng tiết mồ hôi, viêm da, nhiễm nấm là cửa ngõ thuận lợi cho việc xâm nhập của vi khuẩn gây ra nhọt.
- Những người nghiện rượu, suy dinh dưỡng, đái tháo đường, chàm cơ địa, viêm thận, suy giảm miễn dịch...là những yếu tố thuận lợi gây nhọt.
Tiến triển và tiên lượng
- Nhọt tuy là một bệnh nhiễm khuẩn nhưng nhìn chung là lành tính, bệnh sẽ khỏi trong vòng 3 ngày đến 1 tuần. Một số người nhất là những người ra mồ hôi nhiều, vệ sinh da kém hoặc có bệnh đái tháo đường, bệnh hệ thống, bệnh suy giảm miễn dịch... có thể bị nhọt tái phát nhiều lần và diễn biến phức tạp.
- Nhọt cụm, đinh râu có thể có biến chứng nặng, xảy ra bất kì lúc nào.
Điều trị
- Tại chỗ: Không được tự nặn phá nhọt khi nhọt đang ở giai đoạn viêm tấy đỏ vì có thể phá vỡ hàng rào bảo vệ tự nhiên tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập vào máu gây các biến chứng nguy hiểm.
- Khi số lượng tổn thương nhiều, lan tỏa, “hậu bối”, “đinh râu” hoặc có biểu hiện viêm mạch bạch huyết, viêm mô tế bào hay trên cơ địa người đái tháo đường, bị ở vùng mặt.... cần khám và điều trị theo hướng dẫn của thầy thuốc chuyên khoa.
Phòng bệnh
- Giữ vệ sinh cá nhân sạch sẽ: thường xuyên tắm rửa, thay quần áo lót, khăn, phơi nắng chăn đệm... Khi bị nhọt, giặt sạch đồ dùng cá nhân bằng xà phòng tiệt khuẩn với nước nóng.
- Tránh cào gãi vết thương, vết xước trên da.
- Bớt ăn ngọt, ăn đủ chất đạm, bổ sung vitamin A, C.  Loại bỏ các yếu tố thuận lợi như đái tháo đường, suy dinh dưỡng, béo phì, suy giảm miễn dịch bao gồm cả HIV/AIDS...

Có rất nhiều bệnh da gây nên bởi những biến đổi của gen, là hậu quả của sự đột biến xảy ra trong quá trình sinh trưởng. Những đột biến này nếu không được sửa chữa sẽ biểu hiện các triệu chứng trên lâm sàng và di truyền cho các thế hệ sau. Trong những năm gần đây nhờ sự tiến bộ của khoa học di truyền, người ta đã xác định được căn nguyên di truyền của nhiều bệnh da.

Bệnh da vảy cá
Biểu hiện chủ yếu của bệnh da vảy cá là da rất khô, bong vảy dày do rối loạn quá trình sừng hóa của da. Có rất nhiều thể khác nhau và mức độ nặng hay nhẹ tùy thuộc vào từng thể và kiểu di truyền.
Bệnh vảy cá thông thường (Itchyosis Vulgaris) liên quan với nhiễm sắc thể X là thể thường gặp nhất,  khoảng 1/2000 đến 1/10000 trẻ trai. Bệnh thường xuất hiện sau khi đẻ từ 3 đến 6 tháng. Tình trạng khô và bong vảy da chủ yếu ở mặt duỗi các chi và thân mình, các nếp gấp thường ít có thương tổn hoặc bình thường. Bệnh thường tăng lên về mùa đông và có xu hướng giảm dần khi trẻ lớn đến tuổi dậy thì.

Đỏ da toàn thân dạng vảy cá (Ichtyosiform erythroderma) là một thể đặc biệt của bệnh vảy cá. Bệnh di truyền theo kiểu lặn với tỉ lệ 1/10000 trẻ sơ sinh. Bệnh biểu hiện ngay sau đẻ với tình trạng da toàn thân đỏ, khô và bóng do giảm tiết mồ hôi. Trường hợp nặng trẻ có thể bị tử vong do rối loạn thân nhiệt, rối loạn nước điện giải hay nhiễm trùng. Trường hợp nhẹ có tiên lượng tốt hơn. Bệnh tiến triển giảm dần với biểu hiện da khô, nhất là về mùa đông, bong vảy da màu nâu đen và thường kết hợp với tình trạng lộn mi, biến dạng vành tai, ngón tay, ngón chân.
Ngoài ra, còn nhiều thể khác hoặc chỉ biểu hiện ngoài da hoặc kết hợp với các rối loạn khác như  chậm phát triển về trí tuệ, điếc bẩm sinh hay đục thủy tinh thể.
 Điều trị bệnh vảy cá bẩm sinh cho đến hiện nay còn gặp nhiều khó khăn, chủ yếu là sử dụng các sản phẩm chống khô da và các thuốc bong vảy da. Vitamin A axít có tác dụng tốt trong một số trường hợp. Tuy nhiên, việc sử dụng thuốc phải có chỉ định của các bác sĩ chuyên khoa.

Dày sừng lòng bàn tay bàn chân
Dày sừng lòng bàn tay bàn chân cũng là một bệnh di truyền gây rối loạn quá trình biệt hóa của các tế bào sừng ở thượng bì. Bệnh có nhiều thể khác nhau với tình trạng dày sừng khu trú hay lan tỏa tùy thuộc vào gen bị tổn thương và kiểu di truyền lặn hay di truyền trội. Biểu hiện lâm sàng là hiện tượng dày sừng lòng bàn tay bàn chân khiến bệnh nhân cầm nắm khó khăn và rất đau khi đi lại. Bệnh có thể xuất hiện sớm hay muộn trong quá trình phát triển cơ thể. Điều trị dày sừng lòng bàn tay bàn chân còn gặp nhiều khó khăn. Vitamin A axít, một loại thuốc có tác dụng điều hòa quá trình sừng hóa có tác dụng tốt.
Ly thượng bì bọng nước bẩm sinh
Ly thượng bì bọng nước bẩm sinh là nhóm bệnh di truyền, trong đó da rất dễ bị tổn thương do sang chấn gây nên các bọng nước. Có nhiều thể khác nhau tùy thuộc vào kiểu di truyền gây rối loạn quá trình biệt hóa của keratin 5, 14 và collagen VII.  Trên lâm sàng,  bệnh được chia thành hai nhóm chính: ly thượng bì loạn dưỡng (Epidermolysis dystrophica) và không loạn lưỡng (Epidermaolusis bullosa simplex). Triệu chứng của thể không loạn dưỡng là các bọng nước trong trên nền da hoàn toàn bình thường, ở vùng tỳ đè, sang chấn như lòng bàn tay, bàn chân, gối, khuỷu tay. Sau một vài ngày, các bọng nước vỡ, đóng vảy và lành không để lại sẹo. Lông tóc móng hoàn toàn bình thường. Bệnh đôi khi xuất hiện muộn khi trẻ bắt đầu biết bò hay biết đi và tiến triển giảm dần khi đến tuổi trưởng thành. 
Thể loạn dưỡng thường xuất hiện sớm ngay sau khi trẻ ra đời. Ngoài thương tổn ở da, niêm mạc miệng, hậu môn sinh dục cũng có thể có các bọng nước dễ vỡ để lại các vết trợt. Các thương tổn da khi lành bao giờ cũng để lại sẹo teo da nhăn nheo, tăng hoặc giảm sắc tố. Kèm theo, bệnh nhân có các biến dạng về móng (teo móng, mất móng), rối loạn phát triển của răng, chậm phát triển về thể chất và trí tuệ.
Điều trị bệnh chủ yếu là chăm sóc, phòng tránh nhiễm trùng.  Trong những năm gần đây, một số nghiên cứu đã chứng minh hiệu quả điều trị bệnh ly thượng bì bọng nước bẩm sinh bằng tế bào gốc. Các tế bào gốc có nguồn gốc từ tủy xương được tiêm vào cơ thể theo đường tĩnh mạch hay tiêm tại chỗ, biệt hóa thành các tế bào sừng giúp cho quá trình phục hồi lớp thượng bì bị tổn thương. Đây là một trong những hướng điều trị mà nhiều tác giả đang tập trung nghiên cứu trong thời gian tới.
Bệnh bạch tạng
Bạch tạng là một bệnh bẩm sinh di truyền lặn với tỉ lệ 1/17000 dân. Biểu hiện mất một phần hay toàn bộ sắc tố của da do thiếu hụt hoặc không có tyrosinase, một loại men tham gia vào quá trình tổng hợp melanin. Ngoài biểu hiện ở da, bệnh nhân còn có thương tổn ở mắt. Mống mắt xám và đồng tử màu đỏ, đáy mắt không có sắc tố. Bệnh nhân giảm thị lực, sợ ánh sáng, rung giật nhãn cầu và loạn thị.
Bệnh bạch biến có thể gặp ở mọi lứa tuổi. Nhưng thường bắt đầu ở tuổi từ 20 đến 30. Biểu hiện lâm sàng là các dát trắng do mất sắc tố, giới hạn thường rõ ràng với vùng da lành, vị trí hay gặp ở vùng da hở, sang chấn như ở mu tay. Một đặc điểm quan trọng giúp cho chẩn đoán phân biệt bạch biến với các bệnh da khác là lông trên thương tổn cũng trắng. Ngoài thương tổn da, có thể có các thương tổn khác như cường tuyến giáp trạng, suy tuyến thượng thận, đái tháo đường… bệnh di truyền gen trội.

Khô da sắc tố
Đây là một bệnh da hiếm gặp, di truyền theo kiểu lặn, do sự biến đổi của gen P53 dẫn đến việc giảm khả năng sửa chữa AND bị đột biến chủ yếu do tia cực tím gây nên, xảy ra trong quá trình phát triển cơ thể. Bệnh biểu hiện sớm với các thương tổn rối loạn sắc tố ở vùng da hở như ở mặt, cổ, kèm theo có những đám dày sừng. Bệnh tiến triển mạn tính và dẫn đến tình trạng ung thư da. Tránh ánh nắng mặt trời bằng mặc quần áo dài tay. Đội mũ rộng vành và sử dụng kem chống nắng đúng qui cách là biện pháp điều trị cơ bản để phòng tránh các thương tổn ác tính trên da.
Loạn sản ngoại bì giảm tiết mồ hôi
Bệnh gồm nhiều thể khác nhau với các triệu chứng khô da, tóc rụng thưa và loạn dưỡng móng. Trong đó,  khô da do giảm hoặc không tiết mồ hôi là dấu hiệu quan trọng nhất gây ra tình trạng tăng nhiệt độ của cơ thể và nhiều biến chứng khác. Bệnh di truyền theo nhiều phương thức khác nhau chủ yếu từ người mẹ mang gen bệnh truyền cho con trai.
U xơ thần kinh
Bệnh u xơ thần kinh do tổn thương chromosome 17 hoặc 22. Bệnh di truyền trội, do vậy khi bố hoặc mẹ mắc bệnh thì 50% con cái bị bệnh. Biểu hiện trên da là những u mềm, kích thước thay đổi từ 0,5 đến một vài cm, đôi khi rất lớn gây biến dạng cơ thể. Bệnh có thể xuất hiện sớm hay muộn sau khi sinh. Lúc đầu chỉ có một vài thương tổn. Đôi khi trên da chỉ có các dát sắc tố màu cà phê sữa. Số lượng thương tổn xuất hiện tăng dần trong quá trình phát triển của cơ thể. Kèm theo bệnh nhân có thể có biểu hiện chậm phát triển về tinh thần. Bệnh tiến triển hoàn toàn lành tính. Việc điều trị chủ yếu là phẫu thuật cắt bỏ những thương tổn u có kích thước lớn, ảnh hưởng đến chức năng và thẩm mỹ.
Ngoài ra còn rất nhiều các bệnh da có tính chất gia đình di truyền khác. Các hướng nghiên cứu hiện nay trên thế giới chủ yếu tập trung vào việc xác định vai trò của các gen và mối tương quan giữa các gen bị biến đổi cũng như vai trò của môi trường đối với quá trình xuất hiện và tiến triển của bệnh. Nghiên cứu ứng dụng tế bào gốc trong điều trị một số bệnh da do di truyền đã có những kết quả bước đầu đáng khích lệ. Tuy nhiên, việc điều trị còn gặp rất nhiều khó khăn, chủ yếu là điều trị triệu chứng và phòng các biến chứng của bệnh. Việc hôn thú cùng huyết thống làm tăng khả năng bị bệnh. Do vậy, việc tư vấn các bác sĩ chuyên khoa hay các nhà di truyền học trước khi xây dựng gia đình vẫn là biện pháp quan trọng nhất nhằm phòng tránh các bệnh di truyền cho những thế hệ kế tiếp.

Điều trị bệnh vảy cá bẩm sinh cho đến hiện nay còn gặp nhiều khó khăn, chủ yếu là sử dụng các sản phẩm chống khô da và các thuốc bong vảy da. Vitamin A axít có tác dụng tốt trong một số trường hợp. Tuy nhiên, việc sử dụng thuốc phải có chỉ định của các bác sĩ chuyên khoa.
Design by Hao Tran | Blogger Theme by Sức khỏe sinh sản -