Hiển thị các bài đăng có nhãn bệnh da. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn bệnh da. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 4 tháng 10, 2013

(SKDS) -  Với khí hậu nóng ẩm, nhiệt đới gió mùa; điều kiện vệ sinh, phong tục tập quán ở nhiều nơi còn thấp kém; việc dùng kháng sinh và corticoid kéo dài, không theo hướng dẫn của thầy thuốc... là cơ hội cho bệnh về da nói riêng và bệnh do nấm gây ra phát triển lan tràn.

Có rất nhiều loại bệnh da do nấm gây nên như nấm thân, nấm kẽ, nấm tóc, nấm móng, lang ben... tuy nhiên trong phạm vi bài viết này chỉ đề cập đến những vấn đề cơ bản về bệnh nấm thân  (hắc lào), nấm kẽ (nước ăn chân), nấm lang ben là các bệnh dễ có nguy cơ bùng phát trong điều kiện thời tiết nóng ẩm.
Nấm hắc lào
Đây là bệnh do vi nấm thuộc nhóm dermatophytes, hay gặp nhất là hai loại trychophyton và epidermophyton. Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi, nhưng thường gặp nhiều hơn ở tuổi thanh thiếu niên và trung niên.
Biểu hiện làm bệnh nhân khó chịu nhất là ngứa ở vùng da bị tổn thương, ngứa cả ngày lẫn đêm, ngứa nhiều hơn khi về đêm, khi đổ mồ hôi, hoặc khi thời tiết nóng bức... tổn thương cơ bản là các đám đỏ hình tròn, bầu dục hoặc đa cung, đường kính, số lượng khác nhau. Ranh giới rõ, có bờ viền, bờ có mụn nước, giữa có xu hướng lành, khô, bong vẩy nhẹ, phát triển ly tâm lan dần ra ngoại vi. Bệnh có thể gặp ở bẹn, chân tay, mặt, bụng, ngực... Nếu không điều trị kịp thời bệnh sẽ lây sang những vị trí khác của cơ thể, tăng mức độ tổn thương trên da, chàm hóa hoặc dễ dàng lây sang người khác do tiếp xúc trực tiếp hoặc lây qua quần áo.
Bệnh hắc lào tuy gây nhiều khó chịu cho người bệnh nhưng chữa trị không khó. Tuy nhiên nếu dùng thuốc không đúng, thuốc quá mạnh, bôi sang cả vùng da lành, da non thì sẽ gây ra tình trạng phỏng, chảy nước vùng bôi thuốc, thậm chí nếu dùng theo lời mách bảo không đúng còn gây nhiễm khuẩn, sưng đau.
Nguyên tắc điều trị
Phát hiện sớm, điều trị sớm, tránh lây lan trong tập thể.  Điều trị liên tục, đủ thời gian, đúng phác đồ. Không cào gãi, chà sát; kết hợp vệ sinh phòng bệnh ngoài da với tắm giặt, phơi nắng chăn màn, quần áo; kết hợp điều trị tại chỗ với điều trị toàn thân.
Những loại thuốc cổ điển như ASA, BSI... cũng có tác dụng tốt nhưng gây lột da nhiều, đau rát, có thể làm sạm da. Trong tuần 1: bôi BSI 2% hai lần sáng, chiều; sang tuần 2: sáng bôi BSI 2%; chiều bôi mỡ Benzosali; từ tuần 3: bôi mỡ Benzosali 1lần / ngày đến khi mịn da.
Hiện nay đã có những loại thuốc mới, có thể bôi hoặc uống. Thuốc bôi như ketoconazol, miconazol, clotrimazol... Những thuốc này có ưu điểm là không có màu, mùi thơm, không gây lột da, không sưng đau nhưng cũng có thể gây ra những dị ứng nhẹ. Những dị ứng này sẽ hết khi ngừng dùng thuốc.
Trong trường hợp bệnh tái phát nhiều lần có thể phải dùng thuốc chống nấm dạng uống. Thuốc cổ điển được sử dụng là Griseofulvin: thuốc được dùng trong nấm da mạn tính, tái phát dai dẳng điều trị bằng phác đồ thông thường không hết, hoặc nấm móng, nấm tóc, nấm da do chủng Tricophyton rubrum; thuốc không được dùng cho phụ nữ có thai, bệnh gan thận, người già, trẻ em, làm việc trên cao, người vận hành máy móc.
Hiện nay có thể dùng thuốc chống nấm thuộc nhóm azol như ketoconazol, fluconazol.
Tuy nhiên việc dùng thuốc gì và liều lượng như thế nào cần phải được thầy thuốc chuyên khoa da liễu khám và chỉ định, nếu tự ý dùng có thể sẽ xảy ra những tác dụng phụ nguy hiểm.
Nguyên nhân gây ra bệnh hắc lào là do sống trong môi trường không vệ sinh, người ra nhiều mồ hôi mà ít tắm giặt; bơi lội trong vùng nước bẩn. Chính vì vậy việc phòng bệnh phải bắt đầu bằng lối sống vệ sinh sạch sẽ, tắm gội và giặt giũ quần áo, chăn màn thường xuyên. Những người đang bị bệnh, bên cạnh việc dùng thuốc tại chỗ phải diệt nấm ở những vật dụng cá nhân như quần áo, chăn màn... bằng cách luộc ở nước sôi 100oC trong vòng 15 phút. Đối với người lành không mang bệnh không nên mặc quần áo chung với người khác, tránh làm việc nơi ẩm ướt, nếu ra mồ hôi nhiều cần phải thường xuyên tắm giặt và giữ khô những vùng da nếp như háng, nách, bẹn. Khi mắc bệnh phải đi khám để được hướng dẫn chữa trị đúng.

 Tổn thương da do nấm
Nấm kẽ
Căn nguyên của bệnh là do vi nấm epidermophyton, nấm trichophyton hay còn do nấm candida albicans. Bệnh bắt đầu ở giữa kẽ ngón chân thứ 3 và thứ 4. Kẽ ngón có hiện tượng bong xước da, màu hơi vàng, chảy dịch, có thể xuất hiện mụn nước. Bệnh thường gặp ở những người do nghề nghiệp phải tiếp xúc nước nhiều giờ liên tục trong nhiều ngày như nông dân, người làm vệ sinh cống rãnh, vận động viên bơi lội... nên trong dân gian hay gọi là nước ăn chân, tuy nhiên điều cần chú ý, nếu căn nguyên do nấm thì không nguy hiểm, nhưng nếu căn nguyên do nhiễm khuẩn mà bệnh nhân chủ quan không đi khám có thể dẫn tới nhiễm khuẩn toàn thân.
Về điều trị, thường sử dụng ketoconazol hoặc miconazol bôi tại chỗ, ngoài ra những người thường xuyên phải dầm trong nước bẩn, cần rửa chân bằng nước muối loãng, nước lá trầu không hay nước chè… sau đó lau thật khô mới được đi giày, tất. Bên cạnh đó, cần thường xuyên dùng dung dịch cồn iốt nồng độ thấp hoặc các loại bột có tác dụng diệt nấm ở bàn chân và kẽ ngón chân.
Nấm lang ben
Trong điều trị các bệnh nấm da việc dùng thuốc gì và liều lượng như thế nào cần phải được thầy thuốc chuyên khoa da liễu khám và chỉ định, nếu tự ý dùng có thể sẽ xảy ra những tác dụng phụ nguy hiểm.
Thuộc nhóm bệnh nấm gây bệnh ở lớp sừng. Tác nhân gây bệnh là malazzesia furfur  gồm có 2 loại Pityrosporum orbiculare  thâm nhập vào lớp sừng  và các lỗ chân lông và Pityrosporum ovale gây bệnh trên da đầu. Bệnh gặp ở ngư­ời nhiều mồ hôi và có thay đổi về thành phần hoá học của mồ hôi.
Bệnh bắt đầu bằng các chấm hồng nâu, hoặc trắng ở lỗ chân lông. Các chấm lớn dần lan rộng và liên kết với nhau, bờ nham nhở vòng vèo. Bề mặt tổn th­ương có vẩy da nhỏ cạo bong ra dễ dàng, gọi là dấu hiệu vỏ bào. Th­ương tổn không đau không ngứa hoặc ngứa ít lúc ra mồ hôi. Vị trí th­ường gặp ở ngực, lư­ng, cổ, bụng, vùng nếp gấp đôi khi có thể thấy ở da đầu, tay chân. Bệnh thư­ờng hay tái phát. Sau khi khỏi để lại đám mất màu khá lâu trông giống như­ bị bạch biến. Bệnh thư­ờng gặp ở n­ước nhiệt đới nóng ẩm.
Bệnh dễ điều trị nhưng hay tái phát. Tại chỗ có thể bôi các thuốc làm bong vẩy và diệt nấm như dung dịch ASA, cồn iode salicyle 2%, mỡ salicyle 3-5%. Tốt nhất nếu có điều kiện nên sử dụng các thuốc chống nấm mới thuộc nhóm nhân azole sẽ tốt hơn như kem ketoconazol hoặc fluconazol bôi 2 lần một ngày. Các trường hợp nặng có thể kết hợp với uống thuốc chống nấm toàn thân.
Lưu ý khi sử dụng thuốc chống nấm
Glyseofulvin là thuốc ít hấp thu qua đường tiêu hoá. Hấp thu thuốc qua đường tiêu hóa tăng lên khi uống trong hoặc sau các bữa ăn có nhiều chất béo. Phân bố nhiều ở da, tóc, móng, gan, mô mỡ và cơ xương. Tích luỹ nhiều trong các tế bào tiền thân keratin và có ái lực cao với mô nhiễm bệnh. Thuốc được chỉ định: điều trị các loại nấm da, tóc và móng nhạy cảm. Tác dụng không mong muốn: thường gặp là nhức đầu, chán ăn, buồn nôn, ban da, rối loạn cảm giác, viêm dây thần kinh ngoại biên, ngủ gà, chóng mặt, giảm bạch cầu. Do đó thuốc chống chỉ định khi người dùng có rối loạn chuyển hoá porphyrin, suy gan.
Ngược lại, ketoconazole lại là thuốc hấp thu được qua đường uống, tốt nhất ở pH acid (tức là khi đói). Thuốc phân bố vào các mô mềm, da, gân và các dịch như nước bọt, dịch khớp, mật, nước tiểu. Thuốc qua nhau thai và sữa mẹ nhưng không qua được hàng rào máu não. Thuốc được chỉ định trong điều trị các bệnh do nhiễm nấm nhạy cảm ở da, tóc, móng, đường tiêu hoá và nội tạng. Dự phòng và trị nấm ở người suy giảm miễn dịch và viêm da do tăng tiết bã nhờn. Nhưng tác dụng không mong muốn khi dùng (tùy theo thời gian và liều sử dụng) có thể gặp là buồn nôn, nôn, táo bón, đầy hơi, tiêu chảy, chảy máu tiêu hoá; thiểu năng tuyến thượng thận, gây chứng vú to ở nam giới và giảm tình dục; có thể gặp nhức đầu, chóng mặt, kích động hoặc ngủ gà, viêm da, phát ban, mày đay, tăng enzym gan.

Fluconazol hấp thu tốt qua đường tiêu hóa, không bị ảnh hưởng bới thức ăn và pH dạ dày. Phân bố tốt vào dịch cơ thể kể cả dịch não tủy, thải trừ chủ yếu qua nước tiểu. Thuốc có tác dụng tốt với hầu hết các chủng Candida kể cả nhiễm nấm ở giai đoạn cuối của bệnh nhân AIDS đã kháng thuốc trị nấm khác. Do đó thuốc được chỉ định sử dụng trong các trường hợp nhiễm nấm màng não do Cryptococcus, nhiễm nấm Candida thực quản ở bệnh nhân AIDS. Khi dùng thuốc cũng có thể gặp tăng men gan, ban da, buồn nôn, đau bụng...

Thứ Năm, 3 tháng 10, 2013

(SKDS) – Với khí hậu nắng nóng, ẩm ướt của mùa hè tạo điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn, côn trùng, ký sinh trùng phát triển... Đây cũng là cơ hội để một số bệnh da có cơ hội phát triển hơn trong mùa này.

Rôm sảy
Là một trong những bệnh da phát triển khi thời tiết nóng bức với biểu hiện nổi nhiều đốm đỏ li ti gây ngứa mạnh ở các vùng ra nhiều mồ hôi như lưng, ngực, trán, cổ... Nguyên nhân là do thời tiết nắng nóng làm giãn các mao mạch trên da, tạo điều kiện cho các vi khuẩn xâm nhập gây nên hiện tượng viêm da (hay rôm sảy) và cũng chính thời tiết nóng bức thường gây tiết mồ hôi nhiều. Nếu mồ hôi không thoát hết sẽ gây ứ đọng trong các ống bài tiết trên da, các ống này bị bụi hay chất cặn bã bịt kín gây nổi các nốt viêm.
Rôm sảy xuất hiện ở mọi đối tượng, tuy nhiên, thường xuất hiện ở trẻ nhỏ do trẻ em có làn da mỏng và nhạy cảm hơn. Đa số trẻ chỉ bị rôm sảy khi nóng, còn khi thời tiết mát mẻ, rôm tự lặn hết không gây tác hại gì. Nhưng cũng có nhiều trẻ ít được chú ý tắm rửa, mụn rôm làm trẻ ngứa, gãi nhiều làm da sây sát, bị nhiễm khuẩn thêm thành những mụn mủ và nhọt.
Bệnh chữa trị đơn giản bằng cách giữ da sạch thoáng vào các ngày hè. Kinh nghiệm dân gian dùng mướp đắng giã nát pha với nước hoặc vò nát  (giã) kinh giới, hay sài đất với nước... rồi dùng nước này để tắm có tác dụng làm sạch da. Ngoài ra, có các loại phấn thuốc, phấn rôm, thuốc bôi, nhằm duy trì độ sạch của da, cản bụi nhằm phòng ngừa rôm sảy.

 Rôm sảy nhiễm khuẩn.
Bệnh chốc
Bệnh chốc lây do liên cầu, thường gặp ở trẻ em, có khi ở cả người lớn ở vùng đầu mặt sau có thể lan ra thân mình, tay chân. Tổn thương là bọng nước vài mm, bùng nhùng sau vài giờ thành mụn mủ rồi vỡ thành chợt đỏ nông, đóng vẩy tiết vàng kiểu mật ong rồi lành. Dịch mủ chảy ra có thể lây lan ra vùng khác. Một số trường hợp có biến chứng cầu thận cấp.
Cần chấm rửa vết thương bằng dung dịch berberin 1%o, nước lá chè tươi, bôi dung dịch xanh-methylen 1% hoặc tím metin 1%, hoặc betadin. Khi thương tổn đã khô chuyển sang bôi thuốc mỡ kháng sinh như tetraxyclin, fucidin, bactroban. Uống một đợt kháng sinh (nếu cần) để bệnh nhanh khỏi và tránh những biến chứng nguy hiểm như viêm cầu thận.
Đinh nhọt
Căn nguyên do tụ cầu vàng độc tính cao gây viêm toàn bộ nang lông. Nang lông bị hoại tử tạo thành “ngòi”. Biểu hiện lâm sàng là một khối đỏ viêm sưng tấy (1-5cm đường kính), đau, ban đầu cứng, sau mềm dần hoá mủ, tạo ngòi. Sau 8-10 ngày vỡ mủ thoát ngòi rồi lành sẹo. Triệu chứng toàn thân có khi sốt, mệt mỏi nhất là khi nhọt to hoặc nhiều nhọt.
Ở giai đoạn u tấy đỏ đau còn cứng chấm cồn iod 5% (chú ý không chích nặn sớm), uống hoặc tiêm kháng sinh tuỳ mức độ. Đến khi hoá mủ hoàn toàn chích nặn mủ ngòi để nhọt mau lành. Uống kháng sinh và thay băng đến khi lành.
Cần lưu ý nhọt ở vùng cằm mép gọi là “đinh râu” rất nguy hiểm dễ gây nhiễm khuẩn huyết không được chích nặn, chấm cồn iod 3-5%. Tiêm, uống kháng sinh liều cao và theo dõi chặt chẽ.

“Hậu bối” là cụm đinh nhọt có nhiều mủ, nhiều ngòi và có quá trình hoại tử phần mềm, thường ở người già yếu, suy giảm miễn dịch, đám tổn thương có đường kính từ 5-15cm, viêm tấy đỏ, có nhiều mủ, nhiều ngòi về sau hoại tử, có nguy cơ nhiễm khuẩn huyết, cần đi khám tại bệnh viện. Dùng kháng sinh liều cao và phối hợp kháng sinh, thay băng hàng ngày.

Thứ Bảy, 28 tháng 9, 2013

Nhiều ngày nay, thời tiết nước ta rét đậm, rét hại kéo dài, nhiệt độ xuống thấp là điều kiện cho một số bệnh ngoài da phát triển mạnh. Điển hình là bệnh cước do lạnh, mày đay, nứt nẻ da, ngứa… Mặc dù đa số các bệnh lý da do lạnh thường không trực tiếp nguy hiểm đến tính mạng nhưng lại gây ra những phiền toái trong cuộc sống người bệnh.


 Cần giữ ấm để phòng bệnh về da do lạnh.
Một số bệnh ngoài da do lạnh
Cước: là một loại chấn thương do lạnh gây kích thích co mạch ngoại vi làm cho tổ chức vùng đó bị thiếu ôxy nuôi dưỡng dẫn đến hoại tử tế bào, tạo thành những đám da phù nề màu đỏ sẫm đôi khi có mụn nước, xuất huyết. Người bệnh cảm thấy đau đớn vùng bị tổn thương và ngứa ngáy khi ủ ấm làm ảnh hưởng nhiều đến lao động và sinh hoạt. Vị trí thương tổn hay gặp ở các ngón chân, bàn chân, ngón tay, bàn tay, tai và mũi. Cước được chia làm hai thể: cước cấp tính và mạn tính. Đề phòng cước cần giữ ấm chân tay bằng cách đi găng tay, bít tất len và sưởi ấm ngay sau khi nhiễm lạnh. Bỏ thuốc lá vì chất nicotine gây co thắt mạch ngoại vi làm bệnh nặng thêm. Nhất là người cao tuổi và trẻ em dưới 10 tuổi phải được chăm sóc đặc biệt tránh bị nhiễm lạnh dễ viêm phổi, tắc mạch chi gây hoại tử tại chỗ.
 Mày đay vùng cổ, mặt.
Mày đay do lạnh: Thường xảy ra sau khi tiếp xúc với không khí lạnh thì bị nổi các sẩn, mảng màu đỏ, sưng phù, ngứa dữ dội ở một hay nhiều vùng (thường gặp nhất là những vùng da hở như mặt, tay, chân); nặng hơn thì sẩn và mảng phát khắp toàn thân, kích thước có thể nhỏ hoặc cũng có thể lớn như cái đĩa. Mày đay kéo dài vài phút đến vài giờ khi ngừng tiếp xúc với lạnh và có thể tái phát nhiều lần trong ngày. Một số trường hợp nặng sẽ xuất hiện mày đay lan tỏa, hạ huyết áp, sốc, bất tỉnh, thậm chí tử vong.
Ngứa da do lạnh: Hiện tượng ngứa khi trời lạnh là do cơ thể quá mẫn cảm lại bị giãn mạch khiến chất huyết tương của máu tràn qua thành mạch, xâm nhập các mô gây ngứa và sưng nề. Ngoài ra, chức năng điều tiết của tuyến mồ hôi, tiết bã bị hạn chế cũng làm cho da bị khô. Bình thường da tiết ra những chất hữu cơ như acid organic cùng với mồ hôi. Các axít hữu cơ có tác dụng giữ cho da nhờn, đàn hồi, chống lại sự xâm nhập của các loại vi khuẩn, nấm, ký sinh trùng, bụi bẩn... Biểu hiện của tình trạng ngứa do thời tiết lạnh có thể từ lâm râm đến dữ dội, nhất là vào ban đêm khi ngủ. Ngứa do thời tiết chỉ điều trị khỏi từng đợt, không thể chữa khỏi vĩnh viễn. Đối với một số bệnh nhân, khi thời tiết ấm lên, cơn ngứa cũng chấm dứt. Biện pháp hạn chế ngứa do lạnh hiệu quả là vệ sinh da sạch sẽ nhưng khi tắm chỉ nên dùng nước đủ ấm. Khi bị ngứa dữ dội kéo dài nên đến khám ở chuyên khoa da liễu để được chỉ định dùng thuốc vì nếu gãi nhiều sẽ gây xước da, nhiễm khuẩn và viêm da.
Viêm da cơ địa: thường tiến triển mạn tính, có thể khỏi một thời gian, sau đó lại tái phát. Bệnh có tính chất gia đình. Thời tiết càng lạnh và khô hanh thì da người bệnh càng trở nên dày, khô, mốc trắng và ngứa. Vùng da dễ bị khô dày và tổn thương do gãi nhiều thường là nách, kẽ vú, bẹn, khuỷu tay, khoeo chân. Có người không chịu được ngứa đã gãi nhiều nên vùng da này càng dày hơn trông như hằn cổ trâu. Việc điều trị không dễ bởi các tổn thương bị nhiễm khuẩn, dùng thuốc hay có tác dụng phụ. Người bệnh tuyệt đối không gãi, không cạo, không chà xát. Nên rửa nhẹ nhàng bằng nước lã bình thường ngày 2 lần, không dùng xà phòng.
Nứt môi và nứt gót chân: Khi bị nứt môi, đầu tiên là môi bị khô, bong vảy, từ từ dẫn đến nứt, gây đau, chảy máu. Nếu không được điều trị đúng, môi sẽ bị chàm hóa, nhiễm khuẩn, gây ăn uống khó khăn và mất thẩm mỹ. Nứt gót chân với biểu hiện da dày lên, có những đường nứt dọc xung quanh gót chân hoặc ngón chân. Lâu ngày, những vết nứt dài ra và sâu hơn, gây đau đớn, chảy máu, đi lại khó khăn và dễ nhiễm khuẩn nếu không giữ sạch sẽ. Hiện tượng này cũng có thể gặp ở phần da tay nhưng ít hơn ở chân

Thứ Sáu, 27 tháng 9, 2013

Bệnh eczema được biết đến với một cái tên khác thông thường hơn là bệnh chàm. Việc điều trị nói chung không khó, có thể tiến hành ở các bệnh viện đa khoa. Vấn đề quan trọng là sự giữ gìn của bệnh nhân để không tái phát.

Nổi eczema do đi… ăn cỗ
Ông Nguyễn Văn Khương, 60 tuổi (Hưng Yên) là một nạn nhân điển hình của bệnh này. Ông cho biết mình bị nổi nốt đầy chân tay sau một lần... ăn cỗ. Thường thì ông không mấy khi uống rượu. Nhưng hôm đó, vì nhiều lý do mà ông không thể từ chối. Kết quả là về nhà ông bị lãnh đủ.
Ban đầu, trên tay chân ông phát ra các đám đỏ da hình tròn hay hình bầu dục. Chúng không liên kết với nhau nhưng cũng không sưng lên thành mụn nhọt. Tuy nhiên, chúng lại rất ngứa. Chỉ sau đấy ít lâu, trên các đám đỏ da lần lượt nổi các mụn nước. Các mụn này to nhỏ không giống nhau nhưng có điểm chung như nhau, đó là ngứa không chịu được và không có mủ bên trong. Chính vì ngứa không chịu được nên ông đã gãi thoả sức trong những ngày sau đó. Kết quả là chân tay ông, nhất là bàn chân bị xước hết da, chảy máu. Có nốt thì toác rộng, có nốt thì rớm máu nhưng có nốt đóng vảy. Chân tay ông đầy những chiến tích cũ. Sẹo chỗ này, sẹo chỗ kia. Đi khám, ông được chẩn đoán là bệnh eczema giai đoạn cấp tính.

Ngứa da là dấu hiệu điển hình
Thông thường, các bệnh ngoài da đều hay có biểu hiện ngứa. Nhưng trong bệnh eczema, dấu hiệu ngứa da là dấu hiệu điển hình nhất. Ngoài ra còn thấy đỏ da và mụn nước. Thường thì khi tiếp xúc với một dị nguyên hay là một yếu tố gây dị ứng nào đó, da vùng tiếp xúc sẽ bị đỏ lên rất điển hình. Đám đỏ da có đặc điểm là xuất hiện nhiều ở vùng bàn tay, bàn chân, rất thường xuyên xuất hiện ở mặt mu, mặt ngoài và mặt trên. Hầu như không bao giờ xuất hiện ở mặt bụng, mặt trong và mặt dưới. Đám đỏ da có nhiều kích thước khác nhau nhưng thường là các đám kích cỡ khoảng 1-2cm đường kính. Chúng có đặc điểm là ngứa, đỏ và tập trung nhiều ở trung tâm. Đỏ da có đặc điểm là bao giờ cũng là dấu hiệu đầu tiên và phải có của bệnh. Quan sát kỹ, thực chất đám đỏ da có các mụn nước nhỏ li ti lấm tấm như đầu đinh ghim nổi lên lờ mờ.
Chỉ sau đó một vài tiếng hay nửa ngày, trên các đám đỏ da nổi lên các nốt mụn nước ở chính tâm. Các nốt mụn có đặc điểm là to dần, màng da che phủ khá dày, không có mủ và càng ngày càng ngứa hơn. Khi gãi bật ra hoặc gãi cho chảy máu thì hết ngứa hoặc ngứa giảm. Nhưng đáng tiếc là giảm được ngứa thì da lại bị nhiễm khuẩn hoặc sẽ bị tổn thương sâu hơn để lại sẹo.
Trong cả hai giai đoạn là đỏ da và mụn nước, ngứa da bao giờ cũng đi kèm và làm cho người bệnh cảm thấy khó chịu. Nhất là một số người thuộc cơ địa dị ứng, nóng tính, da khô thì càng cảm thấy ngứa hơn. Ngứa liên tiếp, càng gãi càng ngứa, càng kỳ cọ càng kích thích.
 Đỏ da, mụn nước, mẩn ngứa là dấu hiệu đặc trưng của bệnh eczema.
Có thể điều trị khỏi không?
Eczema là bệnh có liên quan đến yếu tố dị ứng, thể tạng dị ứng. Vì thế mà cho đến nay, người ta chưa có một biện pháp nào được gọi là khả thi để dập tắt được hoàn toàn bệnh này.

Việc điều trị bao gồm 3 biện pháp cơ bản: uống thuốc chống ngứa, uống và bôi corticoid (ví dụ như kem flucina), dùng kháng sinh khi có nhiễm khuẩn và chiếu tia. Các tia được sử dụng ở đây là UVA, UVB và PUVA. Việc điều trị nói chung không khó, có thể tiến hành ở các bệnh viện đa khoa. Vấn đề quan trọng là sự giữ gìn của bệnh nhân.       

Sau mưa lũ, do điều kiện vệ sinh kém, môi trường, nguồn nước bị ô nhiễm và chứa đựng nhiều vi khuẩn gây bệnh, trong đó phải kể đến các vi khuẩn gây bệnh về da. Vậy những bệnh về da thường gặp trong mùa mưa lũ là gì? Có những biện pháp hiệu quả nào để điều trị và phòng bệnh? Bài viết của ThS. Đỗ Xuân Khoát sẽ giải đáp những thắc mắc này.


 Mùa mưa lũ, do điều kiện vệ sinh kém, môi trường, nguồn nước bị ô nhiễm và chứa đựng nhiều vi khuẩn gây bệnh. (Ảnh: Đ. Nam - nguồn internet)
Các bệnh nhiễm khuẩn da
Chốc lở: Do điều kiện vệ sinh kém, ăn uống thiếu chất, lao động dọn dẹp vệ sinh sau lũ dễ bị tổn thương da, tạo điều kiện cho vi khuẩn tấn công. Thương tổn là những mụn nước, mụn mủ trên da, tập trung ở vùng hở, tay chân. Khi dập vỡ tạo vết chợt loét nông, trên có vảy màu vàng hoặc màu nâu bẩn, xung quanh có viền vảy hoặc quầng đỏ. Khi bị cần phải lau rửa bằng cồn sát khuẩn hoặc betadin. Bôi thuốc sát khuẩn, xanh methylen, castellani. Khi thương tổn đã khô chuyển sang bôi thuốc mỡ kháng sinh như tetraxyclin, foban, bocidate, fucidin. Uống thuốc kháng sinh để bệnh nhanh khỏi và tránh những biến chứng nguy hiểm như viêm cầu thận.
Viêm nang lông: Do thiếu nước sạch, tắm gội vi khuẩn phát triển ở những nang lông như đầu, lông nách, lông sinh dục, râu, lông mày tạo thành những mụn mủ nhỏ ở nang lông rất ngứa, gãi nhiều chảy nước, dịch, ướt tóc, gọi là viêm nang lông chàm hóa rất khó chữa. Khi bị bệnh cũng phải sát khuẩn bằng cồn 70 độ, betadin, bôi mỡ kháng sinh và uống kháng sinh kháng tụ cầu như oxaxylin, bristopen, cloxylan, hạn chế gãi, chải đầu nhẹ nhàng, không làm tổn thương da đầu.
 Khám bệnh ngoài da cho bệnh nhân.
Bệnh viêm kẽ do vi khuẩn (Erythrasma):
hay gặp ở người béo phì, vị trí: hai bẹn, nách, cổ và nếp lằn vú ở phụ nữ. Cũng do thiếu nước sạch vệ sinh, mồ hôi ứ đọng, tạo điều kiện cho vi khuẩn phát triển, thương tổn là những đám da màu đỏ, bờ rõ, có vảy mỏng, hầu như không ngứa, trừ phi bị ở bẹn có cảm giác châm chích khó chịu. Căn nguyên do loại vi khuẩn có tên gọi Corynebacterium minutissimum. Chẩn đoán phân biệt với nấm da bằng cách chiếu đèn huỳnh quang thấy xuất hiện màu đỏ san hô, phân biệt với màu vàng huỳnh quang của nấm. Điều trị bằng bôi dung dịch eryfluid và uống erythromycin 250mg 4 lần 1 ngày.
Bệnh tiêu sừng lõm lòng bàn chân: (pitted keratolysis): còn gọi là bàn chân rỗ, bàn chân hà. Tổn thương là những vết lõm đường kính từ 1-3mm tập trung thành đám ở lòng bàn chân hay thấy ở gót trước và gót sau không đau không ngứa. Căn nguyên do vi khuẩn có tên gọi Micrococcus Sedentarius. Chẩn đoán không khó, chỉ cần dựa vào hình ảnh bàn chân rỗ. Điều trị ngâm rửa nước muối sau đó bôi mỡ kháng sinh erythromycin hoặc clindamycin và mỡ whitfeld xen kẽ, bệnh sẽ khỏi hoàn toàn.
Bệnh da do ký sinh trùng
Bệnh do ấu trùng xâm nhập vào da: Còn gọi là ấu trùng di trú trên da, bệnh ít thấy ở nước ta nhưng cũng không có nghĩa là không có mà do khả năng phát hiện bệnh còn hạn chế. Do trứng của giun sán tồn tại trong đất cát nở thành ấu trùng và xâm nhập vào da người, di trú trên da với tốc độ vài centimet một ngày. Chúng di chuyển ngay dưới lớp sừng tạo thành đường ngoằn ngoèo hơi nổi cao, rộng khoảng 2-3mm. Số lượng tổn thương phụ thuộc vào số lượng ấu trùng xâm nhập. Vị trí hay gặp: cẳng chân, mông, quanh hậu môn, tay. Triệu chứng cơ năng rất ngứa, ấu trùng tồn tại trên da trung bình từ 2-8 tuần. Hiếm khi trên 2 năm. Phòng bệnh: tránh tiếp xúc trực tiếp với đất cát chứa phân. Điều trị tại chỗ: bôi mỡ kháng ký sinh trùng albendazole. Uống thiabendazole 50mg/1kg cân nặng trong ngày, từ 2-5 ngày.
Ghẻ: Trong điều kiện vệ sinh kém, ghẻ cũng sinh sôi nảy nở và lây truyền rất nhanh. Do tiếp xúc trực tiếp giữa người bị ghẻ với người lành. Căn nguyên do ký sinh trùng có tên gọi Sarcoptes Scabies xâm nhập vào da. Thương tổn là những mụn nước, rãnh ghẻ. Vị trí hay gặp: kẽ các ngón tay, nếp lằn chỉ cổ tay, cạp quần, vùng bụng, đùi non, mông bẹn, sinh dục, nếp lằn vú, nách. Hiếm khi thấy ghẻ ở 1/3 trên lưng, mặt. Triệu chứng cơ năng: rất ngứa. Nếu không được phát hiện chữa kịp thời, ghẻ sẽ có biến chứng nhiễm trùng thành những mụn mủ eczema hóa rất khó chữa trị và lây lan ra cộng đồng rất nhanh. Điều trị: vệ sinh cá nhân và bôi thuốc chữa ghẻ, bôi một trong những loại thuốc sau: DEP, eurax, ascabiol. Điều trị cho cả nhà, những người có biểu hiện ngứa ghẻ. Tẩy uế quần áo ga gối bằng cách luộc hoặc phơi 3-4 nắng.
 Ghẻ.
Nước ăn chân

Thực chất là bị nhiễm nấm Candida và Blastomycet. Do chân tay ngâm trong nước nhiều, tế bào sừng bị chết và môi trường ẩm ướt làm cho nấm xâm nhập và phát triển. Thương tổn hay gặp ở các kẽ ngón chân 4, 5, kẽ ngón tay 3, 4. Lúc đầu là những đám da chết mục màu trắng, ngứa nhiều, gãi lột lớp da chết để lại nền da đỏ hồng ẩm ướt, đau rát, ngứa vẫn tiếp tục làm bệnh nhân gãi và rất đau. Nếu không được điều trị, vết chợt loét sâu và lan rộng, nhiễm trùng sưng đau, đi lại khó khăn. Bệnh cũng hay gặp ở người làm nghề quét dọn, công nhân vệ sinh, người nội trợ, giúp việc, thường xuyên phải tiếp xúc với nước, người có bệnh đái tháo đường cũng thường bị nhiễm loại nấm trên. Khi bị bệnh cần hạn chế lội nước, lau chân khô trước khi đi giày dép và điều quan trọng là phải dùng thuốc chống nấm như: castellani, calcream, nizoral, dezor; rửa chân tay bằng xà phòng diệt nấm SAStid hoặc nước quả chanh để tránh tái nhiễm. 

Thứ Ba, 24 tháng 9, 2013

Trò chuyện, tâm sự, trao đổi… là nhu cầu tất yếu của mỗi người trong cuộc sống hằng ngày. Tuy nhiên, có những trường hợp vì khuôn mặt luôn có “màu đỏ” khiến họ mất tự tin trong giao tiếp và thu mình. Vậy đâu là nguyên nhân của hiện tượng đỏ mặt này? Do tâm lý hay do bệnh lý về trứng cá, mụn, giãn mạch hay một lý do khác?


 Tổn thương mụn trứng cá trên mặt.

Gần một năm nay, chị H. 42 tuổi ở Nam Định rất ngại tiếp xúc với những người xung quanh, mặc dù chị là giáo viên nhưng mỗi lần lên lớp lại khiến chị rất căng thẳng. Không phải bởi chuyên môn của chị kém hay không quản lý được học sinh mà chị mất tự tin do da mặt lúc nào cũng bừng đỏ, chỗ lồi chỗ lõm. Nghĩ mình bị mụn trứng cá nên chị đã áp dụng nhiều biện pháp khác nhau để chữa nhưng không có kết quả. Bên cạnh đó, nhiều người nói ở tuổi của chị thì ít khi mắc mụn trứng cá nên chị quyết định đến bệnh viện da liễu để khám. Tại đây, chị được biết mình không mắc bệnh trứng cá mà là một bệnh lý ngoài da có tên gọi là rosacea - là thuật ngữ dùng để chỉ tình trạng ửng đỏ, bừng đỏ của da. Bệnh có nhiều thể khác nhau từ nhẹ đến nặng với nhiều biểu hiện khác nhau và nếu không điều trị sớm, đúng thì có thể gây biến dạng khuôn mặt.
Các thể bệnh rosacea
Rosacea giãn mạch:
Đặc trưng bởi bừng đỏ, ban đỏ cố định vùng mặt trung tâm. Giãn mạch thường gặp, nhưng không phải là triệu chứng cần thiết cho chẩn đoán bệnh.
Rosacea sẩn, mụn mủ:
Đặc trưng bởi ban đỏ cố định vùng mặt trung tâm. Kèm theo có các sẩn xuất hiện thoáng qua, mụn mủ hoặc cả hai ở vị trí trung tâm của mặt. Có thể gặp cảm giác dát bỏng, nhức như kim châm.
Rosacea phì đại (phymatous rosacea):
Rosacea phì đại đặc trưng bởi các lỗ chân lông giãn to, da dày, bề mặt da trở nên không đều hoặc dạng nhiều múi, tạo thành nhiều rãnh, nổi cao và lõm xuống. Mức độ của thể rosacea phì đại cũng có thể nhẹ, trung bình hoặc nặng. Rosacea phì đại thường gặp ở vùng mũi (rhinophyma), nhưng có thể xuất hiện ở cằm (gnathophyma), trán (metophyma), mí mắt (plepharophyma) và tai (otophyma). Ở phụ nữ, rosacea thường không xuất hiện thể phì đại, nhưng có thể xuất hiện đặc trưng tăng tiết bã nhờn, tăng kích thước tuyến với biểu hiện của lỗ chân lông giãn rộng. Nang lông trở nên rộng rõ rệt ở vùng da phì đại và giãn mạch có thể gặp. Về giải phẫu bệnh, rosacea phì đại với đặc trưng tăng sợi chun, tăng xơ, thâm nhiễm các tế bào ở trung bì, quá sản tuyến bã, phì đại các ống tuyến bã.
Rosacea mắt:
Đặc trưng tổn thương ở mắt với biểu hiện mắt đỏ ngầu hoặc luôn ướt (sung huyết kết mạc), cảm giác vật lạ trong mắt, dát bỏng hoặc nhức như kim châm, khô mắt, ngứa, nhạy cảm ánh sáng, giảm thị lực, giãn mạch ở vùng kết mạc và bờ mi mắt hoặc dát đỏ vùng bờ mi hoặc quanh mắt. Viêm kết mạc, viêm bờ mi và xuất hiện bờ mi mắt không đều.
 Sử dụng tia laser điều trị bệnh về da.
Mụn trứng cá và rosacea có gì khác nhau?
Trứng cá và rosacea là hai trong các bệnh da hay gặp nhất. Chúng có những đặc điểm chung như tổn thương sẩn, mụn mủ ở mặt và chính lý do này dẫn đến sự chẩn đoán nhầm. Tuy nhiên, có một số biểu hiện lâm sàng khác biệt giữa 2 bệnh này. Bệnh nhân trứng cá thường có da bóng mỡ và có các tổn thương mụn. Trong thể nặng, bệnh nhân gặp tổn thương mụn bọc, nang và nốt có thể để sẹo. Tổn thương hay gặp ở vùng ngực, lưng và vùng trên cánh tay và mặt; Bệnh thường gặp ở tuổi thiếu niên.  Trong khi đó, rosacea thường gặp sau ở tuổi 30 và hay gặp nhất là từ 40 đến 50 tuổi. Tổn thương thường tập trung ở vùng giữa của mặt, mặc dù các vị trí khác như lưng, ngực và da đầu có thể gặp nhưng hiếm hơn. Tổn thương mụn hiếm gặp và ít khi để lại sẹo. Tuy nhiên thường kèm các biểu hiện khác như ban đỏ lan tỏa, bừng mặt và đỏ tía. Các tổn thương khác như giãn mạch, phì đại xơ, liên quan tổn thương vùng mặt có thể gặp.
Cách loại trừ rosecea
Đối với mỗi thể của rosecea đều có những biện pháp điều trị khác nhau. Tùy từng mức độ và giai đoạn của bệnh mà đáp ứng của những phương pháp này với tổn thương da cũng khác nhau. Riêng đối với thể rosecea phì đại thì các phương pháp điều trị đều gặp khó khăn, tuy nhiên có thể sử dụng vitamin A acid kéo dài, bào da bằng laser CO2 có kết quả tốt, đặc biệt thể khu trú ở mũi.

Thứ Bảy, 21 tháng 9, 2013

Mụn hạt cơm hay mụn cóc xuất hiện ở bất kỳ nơi nào trên da hoặc niêm mạc, có đường kính nhỏ hơn 0,5cm. Hạt cơm thường không đáp ứng với bất kỳ dạng điều trị nào và thường tự khỏi nhưng bệnh hay tái phát ở dạng các tổn thương mới.

Nhận biết mụn hạt cơm
Tuy bạn sắp có mụn hạt cơm nhưng thường không có triệu chứng gì, cho đến lúc nó mọc lên bạn mới biết. Nếu là mụn hạt cơm ở gan bàn chân, thì khi ép lên nó, bạn thấy có cảm giác mềm. Còn mụn ở vùng hậu môn sinh dục thường gây ngứa. Rất ít khi hạt cơm gây ra cản trở cơ học dù ở các vị trí như lỗ mũi, ống tai, niệu đạo. Các hạt cơm rất khác nhau về hình dạng, kích thước và hình thức. Nếu nhìn thì đa số các hạt cơm dẹt, có thể thấy rõ dưới ánh sáng xiên. Những hạt cơm dưới móng thường khô, nứt nẻ và tăng sừng, có thể giống như chỗ xước măng rô. Hạt cơm ở gan bàn chân giống như cục chai sần. Ở phụ nữ, soi âm đạo và dùng acid acetic 3% bôi các thương tổn ở cổ tử cung có thể phát hiện các hạt cơm dẹt.
Khi nhận dạng mụn hạt cơm, cần phân biệt với các trường hợp như sau: ở người cao tuổi, các hạt cơm lớn cần phải sinh thiết để loại trừ khả năng ung thư tế bào gai. Đôi khi những tổn thương giống hạt cơm ở các vùng da tiếp xúc ánh mặt trời, thực tế lại là các ung thư tế bào gai và dày sừng quá sản do ánh nắng. Một số thương tổn hạt cơm hoa liễu có thể là do giang mai thứ phát. Những tổn thương u mềm lây có thể bị nhầm lẫn là hạt cơm, đặc biệt khi chúng rất lớn ở những người bị suy giảm miễn dịch. Tổn thương dày sừng da bã nhờn cũng có thể bị nhầm với hạt cơm. Đối với bệnh nhân AIDS, các tổn thương giống hạt cơm cũng có thể do virut Varicella-zoster gây ra.

 Hạt cơm ở mu bàn tay.
Chữa trị và phòng bệnh hạt cơm dễ hay khó?
Cho đến nay, vẫn chưa có một phương pháp điều trị nào có thể đảm bảo khỏi bệnh hay tránh tái phát, nên việc điều trị chỉ nhằm mục đích tạo ra những khoảng thời gian “không có hạt cơm” càng lâu càng tốt mà không tạo sẹo. Ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch, mục đích của điều trị khiêm tốn hơn, là chỉ kiểm soát được kích thước và số lượng của mụn hạt cơm.
Các phương pháp loại bỏ hạt cơm gồm: 
Dùng nitrogen lỏng áp lạnh trong 5-15 giây với hai chu kỳ lạnh - bớt lạnh, có thể điều trị 2 tuần một lần (phải do thầy thuốc chuyên khoa thực hiện để tránh quá mức có thể gây sẹo). Mặt  khác nếu làm không đúng cách đối với tổn thương dọc theo cạnh ngón tay có thể phá hủy thần kinh và gây chứng dị cảm. Nitrogen lỏng có thể gây mất sắc tố đối với những người da màu. Phương pháp này có hiệu quả với các mụn cơm khô ở dương vật và mụn cơm thành dải ở mặt và trên cơ thể. Nên dùng nitrogen lỏng điều trị các tổn thương ở mu bàn chân, trái lại không nên dùng điều trị các tổn thương ở lòng bàn chân và các vùng chịu lực khác vì có thể dẫn tới đau đớn và làm rộp da tạm thời.
Các sản phẩm của acid salicylic cũng có thể dùng để điều trị các mụn cơm thông thường hay các mụn cơm ở lòng bàn chân:  các mụn cơm ở lòng bàn chân được điều trị bằng cách bôi acid salicylic 40% rồi băng lại sau khi cắt bớt mụn cơm, để băng trong 5 ngày, tổn thương giảm đi lại làm lần khác như vậy. Tuy cách này mất nhiều thời gian (hằng tháng) để trừ hẳn mụn cơm, nhưng nó an toàn và hiệu quả, hầu như không có tác dụng phụ.
Đối với mụn cơm ở vùng hậu môn sinh dục, tốt nhất là bôi nhựa podophyllum 25% (podophyllin). Nhưng bệnh nhân có thai không được điều trị theo cách này. Sau 4 tuần, bệnh nhân hết mụn cơm, nhưng có thể bị tái phát sau 6 tuần, nên phải điều trị nhiều đợt mới khỏi. Ngoài ra người ta còn dùng các phương pháp điều trị khác như: phẫu thuật cắt bỏ mụn cơm, dùng laser CO2 điều trị mụn cơm tái phát...

Phòng bệnh cần tránh tiếp xúc với hạt cơm. Nếu bạn bị hạt cơm dẹt thì không nên cào xước hay gây tổn thương vùng bị bệnh. Các hạt cơm ở vùng hậu môn sinh dục có thể lây nhiễm qua quan hệ tình dục, vì vậy bạn nên dùng bao cao su để phòng lây nhiễm bệnh này và các bệnh lây truyền qua đường tình dục khác.

Kẽm oxyd là một trong những thuốc rất thông dụng dùng để chữa một số các bệnh da và nhiễm khuẩn da như: hỗ trợ điều trị chàm (eczema), vết bỏng nông (diện tích bỏng nhỏ, không rộng), cháy nắng, hồng ban do bị chiếu nắng, bảo vệ da do nắng, da khô, trứng cá, côn trùng châm đốt, ban do tã lót, vảy da đầu, tăng tiết nhờn, chốc, nấm da, vẩy nến, loét giãn tĩnh mạch, ngứa.  Ngoài ra, kẽm oxyd còn được dùng điều trị vùng da bị kích ứng do lỗ dò tiêu hóa, hậu môn nhân tạo, mở thông bàng quang.


 Khám da cho bệnh nhân.Ảnh: PV
Kẽm oxyd thường được phối hợp với các hoạt chất khác trong các chế phẩm như: titan oxyd, bismuth oxyd, glycerol, bôm (nhựa thơm) Peru, ichthammol... được dùng dưới các dạng kem dùng ngoài, hồ bôi, thuốc mỡ. Nói chung thuốc dùng tương đối an toàn. Tuy nhiên thuốc có thể gây nên chàm tiếp xúc hoặc gây bội nhiễm (do các tá dược như nhựa thơm, lanolin có trong thuốc gây nên). Người bệnh có thể bị dị ứng với một trong các thành phần của chế phẩm. Nếu gặp các triệu chứng này nên ngừng thuốc. Vì vậy, đối với các trường hợp mẫn cảm với một hoặc nhiều thành phần của thuốc, hoặc những trường hợp tổn thương da bị nhiễm khuẩn không được dùng kẽm oxyd.
Trước khi bôi thuốc và trong quá trình điều trị phải đảm bảo vô khuẩn vùng được bôi thuốc vì có thể bội nhiễm ở các vùng bị thuốc che phủ.
Cách dùng
- Đối với tổn thương trên da: Sau khi rửa sạch vết thương, bôi đều một lớp thuốc mỏng lên vùng da bị tổn thương, 1 - 2 lần một ngày. Có thể dùng một miếng gạc vô khuẩn che lên.
- Chàm, nhất là chàm bị lichen hóa: Bôi một lớp dày chế phẩm hồ nước có chứa ichthammol, kẽm oxyd, glycerol lên vùng tổn thương, 2 - 3 lần một ngày.
 Hình ảnh tổn thương da do bệnh vẩy nến và viêm nang lông.    Ảnh: TL
- Ðau ngứa hậu môn, nhất là trong những đợt trĩ:
Bôi thuốc mỡ hoặc đặt đạn trực tràng có kẽm oxyd, bismuth oxyd, resorcin, sulphon, caraghenat vào hậu môn, ngày 2 - 3 lần, sau mỗi lần đi ngoài. Không nên dùng dài ngày. Nếu sau 7 - 10 ngày dùng không thấy đỡ thì phải thăm khám hậu môn trực tràng để tìm nguyên nhân gây chảy máu và cuối cùng phát hiện bệnh ác tính.

- Tổn thương do suy tĩnh mạch mạn tính, băng sau phẫu thuật giãn tĩnh mạch: Bôi phủ vết thương bằng chế phẩm có 20% kẽm oxyd trong vaselin.

Thứ Sáu, 20 tháng 9, 2013

Viêm da tiếp xúc (VDTX) là phản ứng viêm da do tương tác giữa da và tác nhân tiếp xúc bên ngoài. Tỷ lệ bệnh VDTX khác nhau giữa các vùng địa lý, thời gian trong năm, giới tính, nghề nghiệp, lứa tuổi của bệnh nhân. Tại Việt Nam, bệnh VDTX chưa được thống kê đầy đủ, nhưng đây là một bệnh da hay gặp và có xu hướng ngày càng tăng.

 Các yếu tố ảnh hưởng
- Nồng độ chất tiếp xúc, cách thức tiếp xúc, thời gian, vị trí tiếp xúc.
- Tuổi của bệnh nhân: tuổi nhỏ dễ bị ảnh hưởng hơn.
- Các bệnh kèm theo.
- Yếu tố môi trường như nóng ẩm, tăng tiết mồ hôi.
Có 2 loại VDTX gồm: VDTX kích ứng và VDTX dị ứng.


Biểu hiện lâm sàng
VDTX kích ứng
- Loại này chiếm tới 80%, và gây tổn thương cho hầu hết những ai tiếp xúc với chất đó. Ví dụ: viêm da tiếp xúc kích ứng do phấn côn trùng, do acid, kiềm.
- Có trên 2800 chất gây kích ứng.
- Diễn biến bệnh có thể có 2 loại: cấp tính và mạn tính.
VDTX kích ứng cấp tính
- Xảy ra do tiếp xúc với hóa chất mạnh như acid và kiềm.
- Xuất hiện trong vài phút đến vài giờ sau khi tiếp xúc.
- Biểu hiện nhẹ: cảm giác châm chích, rát bỏng, da khô căng hoặc mày đay thoáng qua.
- Biểu hiện nặng: đỏ, phù nề, đau, mụn nước, bọng nước, mụn mủ, lột da, hoại tử.
- Giới hạn rất rõ, khu trú đúng ở nơi da tiếp xúc với chất kích ứng.
- Bệnh khỏi nhanh sau vài ngày hoặc vài tuần.
VDTX kích ứng mạn tính (hay còn gọi là VDTX kích ứng tích lũy). Đây là loại rất thường gặp.
Bệnh xuất hiện khi tiếp xúc nhiều lần, trong thời gian dài vài tuần, vài tháng, có thể vài năm tiếp xúc với chất kích ứng có nồng độ thấp như xà phòng, dầu gội, chất tẩy rửa …
Các yếu tố thuận lợi: cọ sát, sang chấn, ẩm ướt, v.v…
Biểu hiện da đỏ, bóc vảy, nứt nẻ, ngứa, lichen hóa;
Giới hạn của tổn thương da không rõ với da lành.
Viêm da bàn tay hay gặp ở nữ hơn do tiếp xúc với các chất kích ứng là xà phòng, chất tẩy rửa, đồ ăn… khi làm công việc nội trợ.
Viêm da tiếp xúc dị ứng
- Xảy ra ở những người đã có tiếp xúc với dị nguyên trước đó, có thể vài tuần, vài tháng, hoặc vài năm. Lúc đầu việc tiếp xúc này không gây ra triệu chứng gì, nhưng dần dần khi tiếp xúc nhiều lần sẽ gây tổn thương cho da.
- Xuất hiện muộn, thường sau khi tiếp xúc với dị nguyên 48-72 giờ.
- Biểu hiện lâm sàng:
• Cấp tính: ngứa, đỏ, phù, mụn nước, và tổn thương lan tỏa vượt quá vùng tiếp xúc.
• Mạn tính: ngứa, đỏ, trợt da, bong vảy, lichen hóa, giống VDTX kích ứng mạn tính.
Các tác nhân tiếp xúc
Các chất kiềm, axít, chất tẩy rửa, chất bảo quản, chất khử mùi…hay gây VDTX kích ứng.
- Kiềm: Có trong xà phòng, bột giặt, chất tẩy rửa.
Chất kiềm có khả năng xuyên thấm và phá huỷ sâu do làm tan chất sừng.
Viêm da bàn tay ở các bà nội trợ, công nhân nhà máy xà phòng hay do chất kiềm gây ra.
- Acid sulfuric, acid nitric, acid oxalic, acid chloric... gây VDTX nghề nghiệp
- Kim loại: đồng, thủy ngân, nickel, bạc, kẽm… VDTX dị ứng do kim loại hay gặp nhất là do nickel có ở đồ bằng kim loại như: dây đeo đồng hồ, cúc, khóa móc quần, thắt lưng…
- Các chất khác: bromine, chlorine, iodine, bụi kẽm, bụi vôi, bụi gỗ, bụi thuốc lá, potassium dichlomate trong thuộc da, xi măng…
- Các dung môi hoà tan chất dầu, dầu bôi trơn, dầu cắt công nghiệp…
- Dung môi bay hơi gây VDTX ở mũi, miệng, mặt, vùng da hở.
- Hương liệu, chất bảo quản có trong mỹ phẩm;
- P-phenylenediamine trong chất nhuộm tóc;
- Formaldehyde trong nhựa dán;
- Carbamix, thiramix, mercaptomix trong cao su tổng hợp;
- Thuốc bôi; hoá chất trừ sâu; nhựa cây; hoa, phấn hoa; quần áo…
- Một số hoạt chất gây VDTX do làm tăng nhạy cảm của da khi có sự tác động của ánh sáng mặt trời như Sulfonamide, Phenothiazine, Paraaminobenzoic acid, oxybenzone, 6-methyl coumarine.


 Hình ảnh viêm da do quai dép
Chẩn đoán
Chẩn đoán xác định dựa vào
- Lâm sàng: hình thái, cách sắp xếp và sự phân bố tổn thương ở các vị trí gợi ý cho chẩn đoán.
- Tiền sử cá nhân, đặc biệt là tiền sử các bệnh viêm da trước đó.
- Nghề nghiệp, sở thích, sử dụng mỹ phẩm, quần áo, đồ dùng cá nhân, môi trường nhà ở, thuốc bôi...
Chẩn đoán nguyên nhân, sử dụng các loại test sau đây:
-  Test kích thích:
Để xác định xem bệnh nhân có nhạy cảm với chất tiếp xúc không. Thường bôi chất nghi ngờ vào da ở mặt trong cẳng tay, ngày vài lần trong 7 ngày. Test này được áp dụng cả ở tuyến y tế cộng đồng để xác định nguyên nhân gây VDTX.
- Test áp dùng để chẩn đoán xác định căn nguyên gây viêm da tiếp xúc dị ứng. Loại test áp này chỉ thực hiện được ở các cơ sở có điều kiện xét nghiệm chuyên khoa.
Điều cần lưu ý là rất nhiều trường hợp viêm da tiếp xúc kích ứng cần phải được phân biệt với bệnh Zona. Sự khác biệt cơ bản ở chỗ bệnh Zona thường hay xuất hiện các mụn nước, bọng nước chỉ ở một vùng da chịu sự chi phối của dây thần kinh ngoại biên và chỉ giới hạn ở một bên của cơ thể. Bệnh nhân thường bị đau nhiều, đau sâu và rộng hơn vùng da có tổn thương. Trong khi đó, bệnh VDTX kích ứng thì tổn thương da xuất hiện ở bất kỳ vị trí nào có tiếp xúc và bệnh nhân thường chỉ có cảm giác rát bỏng nông trên bề mặt da bị tổn thương.
Việc phân định rõ ràng hai loại bệnh này rất quan trọng giúp định hướng điều trị đúng để tránh được việc điều trị nhầm rất hay gặp, nhất là tại các nhà thuốc/quầy thuốc, đó là dùng thuốc điều trị Zona cho trường hợp bị VDTX, gây việc sử dụng thuốc không cần thiết, lãng phí và kéo dài thời gian điều trị. Đồng thời, việc xác định đúng bệnh nhân bị bệnh Zona cũng giúp cho điều trị sớm tránh được những di chứng đau sau Zona, đặc biệt đối với người lớn tuổi.
Điều trị
- Ngừng ngay tiếp xúc với các tác nhân nghi ngờ. Nếu đã biết tác nhân gây bệnh thì loại bỏ các chất còn dư thừa trên da bằng cách rửa nước hoặc dùng các chất trung hoà, nhất là đối với trường hợp VDTX kích ứng do các hoá chất mạnh.
- Đắp dung dịch Jarish, nước muối sinh lý, nước thuốc tím loãng, nước lá khế vô khuẩn đối với trường hợp có tiết dịch, sưng nề nhiều.
- Thuốc bôi như Hồ nước, hồ Tetrapred, hoặc các loại kem có corticoid như: hydrocortisol, eumovate, locatop, beprosone, temprosone....
- Trường hợp nặng: Bệnh nhân có thể phải nằm viện điều trị.
Phòng bệnh
- Loại bỏ các chất tiếp xúc gây bệnh đã biết.
- Hạn chế dùng xà phòng, chất tẩy rửa; tránh tắm rửa quá mức để giữ lớp bảo vệ tự nhiên của da.
- Dùng kem bảo vệ thích hợp  trong các môi trường làm việc có tác nhân dễ gây VDTX.
- Thường xuyên bôi kem làm ẩm, nhất là sau khi làm việc để chống nứt, khô da, tránh sự xâm nhập của các chất kích ứng, có thể dùng các loại dầu thực vật, mỡ có sẵn tại gia đình.
- Dùng găng thích hợp khi làm việc trong môi trường có chất kích ứng để không cho hóa chất hay dung môi xuyên thấm vào da.
- Tư vấn nghề nghiệp thích hợp nhất là những trường hợp bị VDTX do nghề nghiệp.
- Có thể thử sự kích ứng/dị ứng của da đối với sản phẩm định dùng bằng cách bôi vào da ở mặt trong cẳng tay, dưới cằm hoặc lưng ngày 2 lần trong 7 ngày, nếu da không có phản ứng gì thì có thể dùng sản phẩm đó được.

Không ít bệnh nhân đã tốn nhiều tiền bạc, công sức chữa trị vảy nến nhưng bệnh ngày càng nặng. Trường hợp của bà Nguyễn Thị S. (SN 1953) mà chúng tôi ghi lại sau đây là một trong những bệnh nhân may mắn tìm “đúng thầy đúng thuốc” sau một thời gian dài chống chọi với vảy nến.


Bà S. kể: Hành trình chữa bệnh vảy nến là những tháng ngày buồn bã và mất phương hướng nhất của tôi. Tôi được chẩn đoán bị vảy nến thể giọt, mới đầu là những nốt đỏ nhỏ mọc thành đám ở vài nơi. Tôi đi khắp các bệnh viện lớn nhỏ, thầy này chữa không đỡ lại tìm thầy khác nhưng bệnh ngày càng nặng thêm. Toàn thân tôi, trừ lòng bàn tay, bàn chân và mặt là không bị, còn lại đỏ rực; các nốt này làm tôi luôn bứt rứt, ngứa ngáy khó chịu. Có một thời gian, tôi đi chữa tư nhân, mỗi mũi tiêm cả trăm nghìn, tiêm vào là bệnh giảm ngay, nhưng sau đó tái phát nặng hơn, chân tay, mặt mũi bị phù hết cả lên, trông rất sợ.

Bệnh tật làm tôi tự ti, mặc cảm vô cùng. Suốt ngày tôi phải mặc quần áo dài, dù vào mùa hè, thời tiết nóng nực  đến mấy. Chẳng bao giờ tôi dám đi du lịch hay tắm biển, địa phương có hội hè gì cũng không dám tham gia. Tôi bán hàng ăn uống nên càng ngượng. Lúc bị nặng quá, tôi phải nghỉ làm để trông cháu. Thế cũng chưa hết, đi trông cháu thì chỉ sợ lây sang con cháu nên cái gì cũng phải dùng riêng,… Mỗi lần tắm gội, nhìn cơ thể chi chít những nốt đỏ rực, tôi lại cảm thấy chán chường, chỉ nghĩ muốn đi đâu thật xa để không ai biết đến mình, khỏi phải khổ con cháu. Nhưng thật may, một lần con gái tôi đọc trên cuốn tạp chí nói đến sản phẩm có hiệu quả cao trong việc chữa trị vảy nến, đó là Kim Miễn Khang. Các con tôi rất lo lắng cho bệnh của mẹ nên đứa nào cũng tìm hiểu mọi thông tin để giúp tôi chữa trị. Con tôi còn lên mạng Internet tìm hiểu, quả nhiên thấy rất nhiều người dùng Kim Miễn Khang hiệu quả. Vậy là tôi quyết định tìm mua về sử dụng.
Tôi uống Kim Miễn Khang đều đặn 8 viên, chia 2 lần mỗi ngày, trước bữa ăn 30 phút. Thật kỳ diệu, căn bệnh tưởng như bất trị của tôi bắt đầu có chuyển biến. Đến tuần thứ 3, các nốt đỏ bắt đầu thâm lại. Hết 4 tuần, các vết thâm mờ đi, không mọc thêm nốt nào mới. Sau hai tháng thì bệnh chuyển biến rõ rệt, các nốt mất dần đi, hết sẹo, không còn làm tôi ngứa ngáy, khó chịu nữa. Bây giờ, tôi bỏ hết các thuốc tây y, chỉ dùng sản phẩm này thôi.
Đặc biệt, tôi ăn ngủ khỏe hơn. Trước kia, cố gắng lắm tôi cũng chỉ được lưng bát cơm, lại phải kiêng khem đủ thứ. Chỉ cần ăn một miếng thịt gà hay quả trứng là lập tức toàn thân tôi lại nổi đỏ chi chít. Giờ thì tôi ăn được vài ba bát cơm mỗi bữa, đôi lúc cũng ăn quả trứng rán nhưng không thấy nốt mới nổi lên. Vui nhất là giờ tôi không còn bi quan như trước, các con thấy mẹ đỡ thì cũng rất mừng, chúng chia nhau mua Kim Miễn Khang cho mẹ.

Thứ Tư, 18 tháng 9, 2013

Da người là “đất sống” của nhiều loài vi khuẩn, thậm chí  cả nấm và kí sinh trùng. Loại vi khuẩn thường gặp nhất là tụ cầu (staphylococcus) và liên cầu (streptococcus). Bình thường các vi khuẩn này không gây bệnh ở da, nhưng khi gặp điều kiện thuận lợi như cơ thể bị suy yếu, vệ sinh da kém, môi trường nóng nực, ngứa gãi, bị chấn thương ở da, bị bệnh đái tháo đường v.v... thì các vi khuẩn này sẽ tăng độc tính và gây ra tình trạng nhiễm trùng trên da.

 Bệnh chốc                   
Chốc là bệnh nhiễm trùng nông trên da biểu hiện bằng các dát đỏ, bọng nước. Bệnh do liên cầu, tụ cầu hoặc phối hợp cả hai gây nên, gặp ở mọi lứa tuổi, nhưng 90% trường hợp là ở lứa tuổi nhà trẻ, mẫu giáo.
Biểu hiện bệnh bắt đầu là các dát đỏ xung huyết trên da, nhanh chóng tạo thành bọng nước nhăn nheo, xung quanh có quầng đỏ. Sau vài giờ từ đáy bọng nước xuất hiện mủ đục từ thấp lên cao,  dễ dàng dập vỡ, đóng vảy tiết màu vàng nâu giống màu mật ong. Ở da đầu, vảy tiết làm tóc bết lại. Khoảng 7-10 ngày sau, vảy tiết bong đi để lại dát hồng hoặc dát thâm, tồn tại một thời gian ngắn, mất đi không để lại sẹo. Vị trí thường gặp ở  mặt, nhưng có thể bất kì chỗ nào kể cả lòng bàn tay, chân, hiếm khi thấy ở niêm mạc nhưng cũng có thể có.
Toàn thân:  rất hiếm khi sốt, trừ trường hợp thương tổn chốc toàn thân hoặc có biến chứng. Bệnh nhân có thể ngứa gãi làm thương tổn lan rộng, chàm hóa hoặc lan sang vùng da khác.
Căn nguyên, bệnh sinh
Từ các sang chấn nhỏ trên da, vi khuẩn sẽ xâm nhập qua da vào lớp sừng và lớp gai, nhân lên, rồi tiết độc tố làm tan rã các cầu nối liên kết giữa các tế bào gai, huyết thanh tụ lại tạo thành bọng nước dư­ới lớp sừng.
Các yếu tố như tuổi nhỏ, thời tiết nóng ẩm, mùa hè, nơi ở chật chội, vệ sinh kém là những điều kiện thuận lợi cho bệnh phát triển. Ngoài ra, các yếu tố  như bị chấy, rận, ghẻ, herpes, côn trùng cắn, viêm da cơ địa... cũng làm cho bệnh dễ phát sinh và phát triển.
Tiến triển
Chốc là bệnh lành tính. Nếu phát hiện và điều trị tích cực thì khoảng 7-10 ngày là khỏi, ít có tái phát và biến chứng, nhưng nhiều bệnh có thể tiến triển dài hơn và có các biến chứng từ nhẹ đến nặng như chàm hóa, viêm phổi, cầu thận cấp, chốc loét, nhiễm trùng huyết....
Điều trị
- Tại chỗ: Làm bong vảy tiết bằng đắp dung dịch NaCl 9 phần ngh hay thuốc tím 1/10.000 hoặc dung dịch Jarish. Nếu vảy dày dùng mỡ kháng sinh. Khi vảy tiết đã bong đi, chấm vào tổn thương dung dịch sát khuẩn có màu như  milian hoặc castellani.
- Toàn thân: dùng kháng sinh nhóm β-lactam, cephalosporine, macrolid, quinolone, kháng sinh penicilline bán tổng hợp khi  thương tổn lan rộng, nặng, dai dẳng và có nguy cơ biến chứng viêm cầu thận cấp, chốc loét, nhiễm trùng huyết....
Phòng bệnh
Tắm rửa vệ sinh ngoài da, cắt tóc, cắt móng tay. Chăm sóc cho trẻ nhỏ, nhất là sau khi mắc các bệnh do virus hoặc sởi. Tránh ở lâu những nơi ẩm thấp, thiếu ánh sáng. Điều trị sớm và tích cực, tránh chà xát, gãi nhiều gây biến chứng.

 Khám bệnh ngoài da cho bệnh nhân.
Bệnh viêm nang lông
Là phản ứng viêm của một hoặc nhiều nang lông ở bất kì vị trí nào trên cơ thể, trừ vùng bán niêm mạc và lòng bàn tay, bàn chân. Nếu viêm nang lông xảy ra ở những vùng có lông tóc dài như  đầu, râu, lông nách, lông mu thì gọi là viêm chân tóc hay sycosis. Nếu thương tổn ở những vùng lông nhẵn thì gọi là viêm nang lông.
Biểu hiện
Viêm nang lông có thể biểu hiện lâm sàng khác nhau tùy theo vị trí tổn thương nang lông nông hay sâu.
- Viêm nang lông nông, viêm cổ nang lông: mụn mủ nhỏ như hạt kê rất nông ở lỗ chân lông, màu vàng nhạt, dễ vỡ để lại vảy mủ hoặc vảy lẫn máu. Bệnh diễn biến thành từng đợt và tự lành sau vài ngày, không để lại sẹo. Vị trí điển hình là ở mặt, da đầu, lông mu, lông nách, nếp bẹn, hai cẳng chân.
- Viêm nang lông sâu: viêm xâm lấn vào tận cấu trúc nang, khi khỏi có thể tạo thành sẹo lồi hay sẹo teo da, rụng tóc.
Căn nguyên
Phần lớn viêm nang lông là do tụ cầu vàng ký sinh ở trên da, trên các lỗ chân lông, nhưng có thể do một số vi khuẩn khác như vi khuẩn gram âm, Enterobacter klebsiella, Proteus, Pseudomonas aeruginosa hay do nấm men (Candida hay pityrosporum), nấm sợi hoặc virus.
Điều trị
- Tại chỗ: Không được nặn mụn mủ, nên chấm tổn thương bằng dung dịch cồn iot 5% hoặc dung dịch betadin.
- Toàn thân:  Có thể uống kháng sinh nhóm β-lactam, cephalosporine, macrolid.
Phòng bệnh
- Loại bỏ chấn thương tại chỗ bằng cách không gãi, không chà xát; không mặc quần áo quá chật; tránh xây xước khi cạo râu...
- Điều trị các bệnh phối hợp như đái tháo đường, giảm miễn dịch....
- Rửa tay thường xuyên, giặt quần áo bằng xà phòng tiệt khuẩn.
- Vệ sinh đúng cách để dự phòng tổn thương lan tỏa và tồn lưu. Nếu tổn thương ở vùng râu thì phải thay dao cạo và cách cạo râu.
Nhọt
Tắm rửa vệ sinh ngoài da, cắt tóc, cắt móng tay. Chăm sóc cho trẻ nhỏ, nhất là sau khi mắc các bệnh do virus hoặc sởi. Tránh ở lâu những nơi ẩm thấp, thiếu ánh sáng.
Là thuật ngữ dùng để chỉ khi viêm nang lông sâu, viêm quanh nang lông và hoại tử vùng trung tâm nang lông tạo nên ngòi màu vàng. Nhọt rất thường gặp và có thể xuất hiện bất cứ trên vùng nang lông nào của cơ thể, tuy nhiên vị trí thường gặp nhất là mặt, cổ, hố nách, mông, đùi và những vùng da băng ẩm kéo dài.
Biểu hiện lâm sàng
Nhọt có thể biểu hiện lâm sàng bằng nhiều hình thái khác nhau và tùy theo từng hình thái mà bệnh nhân có triệu chứng toàn thân hay không.
- Nhọt: Tổn thương ban đầu là cục cứng, đỏ, nóng, đau, khu trú ở nang lông, ở giữa có một đốm trắng còn gọi là “ngòi”. Vị trí thường gặp là vùng có lông, đặc biệt vùng cọ sát hoặc ra mồ hôi nhiều như cổ, nách, mông. Sau vài ngày nhọt trở nên mềm hơn, giảm đau và giảm sưng nóng đỏ. Khi vùng trung tâm nhọt mềm hơn, màu thẫm hơn và hơi bùng nhùng (nhọt “chín”) thì nhọt sẽ vỡ mủ, “ngòi” thoát ra ngoài để lại trên nền thâm nhiễm một lỗ nhỏ, dần dần lên da non và lành sẹo.
Đa số bệnh nhân chỉ có 1 đến 2 nhọt. Tuy nhiên cũng có người có nhiều nhọt (5-7 cái).
Nhìn chung nhọt không có triệu chứng toàn thân. Những người có nhiều nhọt hoặc nhọt ở trẻ em có thể kèm theo sốt, albumin niệu.
- Nhọt cụm: là do nhiều nhọt tập trung thành đám tạo thành “tập đoàn” nhọt hay cụm nhọt. Trường hợp này tổn thương thường viêm nặng hơn, lan rộng hơn và thâm nhiễm sâu hơn. Vị trí nhọt cụm thường ở gáy, lưng, đùi. Khi cụm nhọt xuất hiện ở gáy, lưng thì được gọi là “hương sen” hoặc “hậu bối”. Bệnh nhân thường có sốt, đau đầu, mệt mỏi và rất đau, có thể có albumin niệu.
- Bệnh nhọt: là chỉ một người bị nhọt với số lượng nhiều tái đi tái lại nhiều lần hàng tháng, có khi hàng năm không khỏi.
- Đinh râu: cũng là nhọt nhưng khu trú chủ yếu ở vùng có râu và vùng “bát úp” quanh miệng, chóp mũi. Đinh râu có thể đưa đến viêm xoang tĩnh mạch hang và nhiễm trùng huyết, áp xe não, viêm nội tâm mạc cấp, viêm xương - tủy xương...  do vùng này có mạng mạch máu, mạch bạch huyết rất phong phú và liên kết với hệ thống mạch não, vì thế đây là một cấp cứu cần được phát hiện và xử trí kịp thời.
Nguyên nhân gây bệnh nhọt và các yếu tố nguy cơ
- Tác nhân chủ yếu gây ra nhọt là tụ cầu vàng (staphylococcus aureus). Tuy nhiên,  nhọt cũng có thể gây nên do các vi khuẩn khác như vi khuẩn gram âm, proteus, pseudomonas aeruginosa... hoặc nấm. 
Da bị tổn thương do chà xát, cào gãi hoặc tăng tiết mồ hôi, viêm da, nhiễm nấm là cửa ngõ thuận lợi cho việc xâm nhập của vi khuẩn gây ra nhọt.
- Những người nghiện rượu, suy dinh dưỡng, đái tháo đường, chàm cơ địa, viêm thận, suy giảm miễn dịch...là những yếu tố thuận lợi gây nhọt.
Tiến triển và tiên lượng
- Nhọt tuy là một bệnh nhiễm khuẩn nhưng nhìn chung là lành tính, bệnh sẽ khỏi trong vòng 3 ngày đến 1 tuần. Một số người nhất là những người ra mồ hôi nhiều, vệ sinh da kém hoặc có bệnh đái tháo đường, bệnh hệ thống, bệnh suy giảm miễn dịch... có thể bị nhọt tái phát nhiều lần và diễn biến phức tạp.
- Nhọt cụm, đinh râu có thể có biến chứng nặng, xảy ra bất kì lúc nào.
Điều trị
- Tại chỗ: Không được tự nặn phá nhọt khi nhọt đang ở giai đoạn viêm tấy đỏ vì có thể phá vỡ hàng rào bảo vệ tự nhiên tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập vào máu gây các biến chứng nguy hiểm.
- Khi số lượng tổn thương nhiều, lan tỏa, “hậu bối”, “đinh râu” hoặc có biểu hiện viêm mạch bạch huyết, viêm mô tế bào hay trên cơ địa người đái tháo đường, bị ở vùng mặt.... cần khám và điều trị theo hướng dẫn của thầy thuốc chuyên khoa.
Phòng bệnh
- Giữ vệ sinh cá nhân sạch sẽ: thường xuyên tắm rửa, thay quần áo lót, khăn, phơi nắng chăn đệm... Khi bị nhọt, giặt sạch đồ dùng cá nhân bằng xà phòng tiệt khuẩn với nước nóng.
- Tránh cào gãi vết thương, vết xước trên da.
- Bớt ăn ngọt, ăn đủ chất đạm, bổ sung vitamin A, C.  Loại bỏ các yếu tố thuận lợi như đái tháo đường, suy dinh dưỡng, béo phì, suy giảm miễn dịch bao gồm cả HIV/AIDS...

Có rất nhiều bệnh da gây nên bởi những biến đổi của gen, là hậu quả của sự đột biến xảy ra trong quá trình sinh trưởng. Những đột biến này nếu không được sửa chữa sẽ biểu hiện các triệu chứng trên lâm sàng và di truyền cho các thế hệ sau. Trong những năm gần đây nhờ sự tiến bộ của khoa học di truyền, người ta đã xác định được căn nguyên di truyền của nhiều bệnh da.

Bệnh da vảy cá
Biểu hiện chủ yếu của bệnh da vảy cá là da rất khô, bong vảy dày do rối loạn quá trình sừng hóa của da. Có rất nhiều thể khác nhau và mức độ nặng hay nhẹ tùy thuộc vào từng thể và kiểu di truyền.
Bệnh vảy cá thông thường (Itchyosis Vulgaris) liên quan với nhiễm sắc thể X là thể thường gặp nhất,  khoảng 1/2000 đến 1/10000 trẻ trai. Bệnh thường xuất hiện sau khi đẻ từ 3 đến 6 tháng. Tình trạng khô và bong vảy da chủ yếu ở mặt duỗi các chi và thân mình, các nếp gấp thường ít có thương tổn hoặc bình thường. Bệnh thường tăng lên về mùa đông và có xu hướng giảm dần khi trẻ lớn đến tuổi dậy thì.

Đỏ da toàn thân dạng vảy cá (Ichtyosiform erythroderma) là một thể đặc biệt của bệnh vảy cá. Bệnh di truyền theo kiểu lặn với tỉ lệ 1/10000 trẻ sơ sinh. Bệnh biểu hiện ngay sau đẻ với tình trạng da toàn thân đỏ, khô và bóng do giảm tiết mồ hôi. Trường hợp nặng trẻ có thể bị tử vong do rối loạn thân nhiệt, rối loạn nước điện giải hay nhiễm trùng. Trường hợp nhẹ có tiên lượng tốt hơn. Bệnh tiến triển giảm dần với biểu hiện da khô, nhất là về mùa đông, bong vảy da màu nâu đen và thường kết hợp với tình trạng lộn mi, biến dạng vành tai, ngón tay, ngón chân.
Ngoài ra, còn nhiều thể khác hoặc chỉ biểu hiện ngoài da hoặc kết hợp với các rối loạn khác như  chậm phát triển về trí tuệ, điếc bẩm sinh hay đục thủy tinh thể.
 Điều trị bệnh vảy cá bẩm sinh cho đến hiện nay còn gặp nhiều khó khăn, chủ yếu là sử dụng các sản phẩm chống khô da và các thuốc bong vảy da. Vitamin A axít có tác dụng tốt trong một số trường hợp. Tuy nhiên, việc sử dụng thuốc phải có chỉ định của các bác sĩ chuyên khoa.

Dày sừng lòng bàn tay bàn chân
Dày sừng lòng bàn tay bàn chân cũng là một bệnh di truyền gây rối loạn quá trình biệt hóa của các tế bào sừng ở thượng bì. Bệnh có nhiều thể khác nhau với tình trạng dày sừng khu trú hay lan tỏa tùy thuộc vào gen bị tổn thương và kiểu di truyền lặn hay di truyền trội. Biểu hiện lâm sàng là hiện tượng dày sừng lòng bàn tay bàn chân khiến bệnh nhân cầm nắm khó khăn và rất đau khi đi lại. Bệnh có thể xuất hiện sớm hay muộn trong quá trình phát triển cơ thể. Điều trị dày sừng lòng bàn tay bàn chân còn gặp nhiều khó khăn. Vitamin A axít, một loại thuốc có tác dụng điều hòa quá trình sừng hóa có tác dụng tốt.
Ly thượng bì bọng nước bẩm sinh
Ly thượng bì bọng nước bẩm sinh là nhóm bệnh di truyền, trong đó da rất dễ bị tổn thương do sang chấn gây nên các bọng nước. Có nhiều thể khác nhau tùy thuộc vào kiểu di truyền gây rối loạn quá trình biệt hóa của keratin 5, 14 và collagen VII.  Trên lâm sàng,  bệnh được chia thành hai nhóm chính: ly thượng bì loạn dưỡng (Epidermolysis dystrophica) và không loạn lưỡng (Epidermaolusis bullosa simplex). Triệu chứng của thể không loạn dưỡng là các bọng nước trong trên nền da hoàn toàn bình thường, ở vùng tỳ đè, sang chấn như lòng bàn tay, bàn chân, gối, khuỷu tay. Sau một vài ngày, các bọng nước vỡ, đóng vảy và lành không để lại sẹo. Lông tóc móng hoàn toàn bình thường. Bệnh đôi khi xuất hiện muộn khi trẻ bắt đầu biết bò hay biết đi và tiến triển giảm dần khi đến tuổi trưởng thành. 
Thể loạn dưỡng thường xuất hiện sớm ngay sau khi trẻ ra đời. Ngoài thương tổn ở da, niêm mạc miệng, hậu môn sinh dục cũng có thể có các bọng nước dễ vỡ để lại các vết trợt. Các thương tổn da khi lành bao giờ cũng để lại sẹo teo da nhăn nheo, tăng hoặc giảm sắc tố. Kèm theo, bệnh nhân có các biến dạng về móng (teo móng, mất móng), rối loạn phát triển của răng, chậm phát triển về thể chất và trí tuệ.
Điều trị bệnh chủ yếu là chăm sóc, phòng tránh nhiễm trùng.  Trong những năm gần đây, một số nghiên cứu đã chứng minh hiệu quả điều trị bệnh ly thượng bì bọng nước bẩm sinh bằng tế bào gốc. Các tế bào gốc có nguồn gốc từ tủy xương được tiêm vào cơ thể theo đường tĩnh mạch hay tiêm tại chỗ, biệt hóa thành các tế bào sừng giúp cho quá trình phục hồi lớp thượng bì bị tổn thương. Đây là một trong những hướng điều trị mà nhiều tác giả đang tập trung nghiên cứu trong thời gian tới.
Bệnh bạch tạng
Bạch tạng là một bệnh bẩm sinh di truyền lặn với tỉ lệ 1/17000 dân. Biểu hiện mất một phần hay toàn bộ sắc tố của da do thiếu hụt hoặc không có tyrosinase, một loại men tham gia vào quá trình tổng hợp melanin. Ngoài biểu hiện ở da, bệnh nhân còn có thương tổn ở mắt. Mống mắt xám và đồng tử màu đỏ, đáy mắt không có sắc tố. Bệnh nhân giảm thị lực, sợ ánh sáng, rung giật nhãn cầu và loạn thị.
Bệnh bạch biến có thể gặp ở mọi lứa tuổi. Nhưng thường bắt đầu ở tuổi từ 20 đến 30. Biểu hiện lâm sàng là các dát trắng do mất sắc tố, giới hạn thường rõ ràng với vùng da lành, vị trí hay gặp ở vùng da hở, sang chấn như ở mu tay. Một đặc điểm quan trọng giúp cho chẩn đoán phân biệt bạch biến với các bệnh da khác là lông trên thương tổn cũng trắng. Ngoài thương tổn da, có thể có các thương tổn khác như cường tuyến giáp trạng, suy tuyến thượng thận, đái tháo đường… bệnh di truyền gen trội.

Khô da sắc tố
Đây là một bệnh da hiếm gặp, di truyền theo kiểu lặn, do sự biến đổi của gen P53 dẫn đến việc giảm khả năng sửa chữa AND bị đột biến chủ yếu do tia cực tím gây nên, xảy ra trong quá trình phát triển cơ thể. Bệnh biểu hiện sớm với các thương tổn rối loạn sắc tố ở vùng da hở như ở mặt, cổ, kèm theo có những đám dày sừng. Bệnh tiến triển mạn tính và dẫn đến tình trạng ung thư da. Tránh ánh nắng mặt trời bằng mặc quần áo dài tay. Đội mũ rộng vành và sử dụng kem chống nắng đúng qui cách là biện pháp điều trị cơ bản để phòng tránh các thương tổn ác tính trên da.
Loạn sản ngoại bì giảm tiết mồ hôi
Bệnh gồm nhiều thể khác nhau với các triệu chứng khô da, tóc rụng thưa và loạn dưỡng móng. Trong đó,  khô da do giảm hoặc không tiết mồ hôi là dấu hiệu quan trọng nhất gây ra tình trạng tăng nhiệt độ của cơ thể và nhiều biến chứng khác. Bệnh di truyền theo nhiều phương thức khác nhau chủ yếu từ người mẹ mang gen bệnh truyền cho con trai.
U xơ thần kinh
Bệnh u xơ thần kinh do tổn thương chromosome 17 hoặc 22. Bệnh di truyền trội, do vậy khi bố hoặc mẹ mắc bệnh thì 50% con cái bị bệnh. Biểu hiện trên da là những u mềm, kích thước thay đổi từ 0,5 đến một vài cm, đôi khi rất lớn gây biến dạng cơ thể. Bệnh có thể xuất hiện sớm hay muộn sau khi sinh. Lúc đầu chỉ có một vài thương tổn. Đôi khi trên da chỉ có các dát sắc tố màu cà phê sữa. Số lượng thương tổn xuất hiện tăng dần trong quá trình phát triển của cơ thể. Kèm theo bệnh nhân có thể có biểu hiện chậm phát triển về tinh thần. Bệnh tiến triển hoàn toàn lành tính. Việc điều trị chủ yếu là phẫu thuật cắt bỏ những thương tổn u có kích thước lớn, ảnh hưởng đến chức năng và thẩm mỹ.
Ngoài ra còn rất nhiều các bệnh da có tính chất gia đình di truyền khác. Các hướng nghiên cứu hiện nay trên thế giới chủ yếu tập trung vào việc xác định vai trò của các gen và mối tương quan giữa các gen bị biến đổi cũng như vai trò của môi trường đối với quá trình xuất hiện và tiến triển của bệnh. Nghiên cứu ứng dụng tế bào gốc trong điều trị một số bệnh da do di truyền đã có những kết quả bước đầu đáng khích lệ. Tuy nhiên, việc điều trị còn gặp rất nhiều khó khăn, chủ yếu là điều trị triệu chứng và phòng các biến chứng của bệnh. Việc hôn thú cùng huyết thống làm tăng khả năng bị bệnh. Do vậy, việc tư vấn các bác sĩ chuyên khoa hay các nhà di truyền học trước khi xây dựng gia đình vẫn là biện pháp quan trọng nhất nhằm phòng tránh các bệnh di truyền cho những thế hệ kế tiếp.

Điều trị bệnh vảy cá bẩm sinh cho đến hiện nay còn gặp nhiều khó khăn, chủ yếu là sử dụng các sản phẩm chống khô da và các thuốc bong vảy da. Vitamin A axít có tác dụng tốt trong một số trường hợp. Tuy nhiên, việc sử dụng thuốc phải có chỉ định của các bác sĩ chuyên khoa.
Design by Hao Tran | Blogger Theme by Sức khỏe sinh sản -